Người xứ Nghệ

Nhớ về một người thầy thanh cao mà bình dị

Đầu năm 1953, tôi vào học phổ thông cấp 3 của trường Phan Đình Phùng, tỉnh Hà Tĩnh. Năm học này, trường đã dời địa điểm về xã Ngu Lâm ở phía nam huyên Đức Thọ. Là một học sinh nhà quê từ vùng nông thôn Can Lộc lên học “Trường tỉnh” ở huyên Đức Thọ vào thời đó đối với tôi là một sự kiện lớn, một niềm vinh dự. Nếu Hà Tĩnh được xem là một tỉnh có truyền thống hiếu học, thì Đức Thọ ( cùng với Hương Sơn) là vùng văn hóa tập trung của tỉnh, với biết bao tấm gương về những con người tài năng mà suốt thời tuổi nhỏ tôi vẫn thường được nghe các bậc cha anh nhắc đến với niềm cảm phục, ngưỡng mộ.

Trường Trung học Phan Đình Phùng là trường học lớn nhất tỉnh, nơi có nhiều thầy giáo đã từng dạy học trước Cách mạng tháng Tám, hoặc là các nhà văn, nhà khoa học, nhà hoạt động xã hội, do thời cuộc đưa đẩy đã tụ hội về trường cùng làm cái nghề dạy học vốn được xem là thanh bạch và cao quý. Bọn học trò nhỏ mới được vào trường như chúng tôi trong những buổi đầu nhìn lên các thầy với một niềm tôn kính và ngưỡng mộ, nhưng không khỏi có ít nhiều mặc cảm của sự cách biệt.

Thời gian êm ả trôi qua, và tôi quen dần với cuộc sống chất vật nghèo nàn của một học sinh xa nhà ỏ trọ và với những buổi học ban đêm đèn dầu không đủ ánh sáng nhưng đầy hấp dẫn bởi những bài giảng nhiệt tình của các thầy mở ra cho chúng tôi niềm đam mê đến với những miền kiến thức mới mẻ về toán học, văn học, địa lý, lịch sử. Những mặc cảm cách biệt qua đi lúc nào không biết, thầy trò, bè bạn dần trở nên gắn bó thân thiết như trong một gia đình.
Tôi nhớ, vào một chiều mùa thu năm 1953, đang ngồi học một mình trong nhà trọ thi chợt nghe tiếng chó sủa, nhìn ra cổng thấy một ông khách cao lớn đội chiếc mũ lá đi vào. Ngỡ ngàng một chút rồi nhận ra ông khách là thầy Trần Quốc Nghệ, tôi vui mừng và lúng túng mời thầy vào nhà như được đón nhận một vinh dự bất ngờ. Trong mắt tôi và theo những gì mà tôi được biết, thầy Nghệ là một người đa tài, từng trải, một người am hiểu cả Nho học và Tây học, một thầy dạy Văn rất “uyên bác”, còn tôi là học trò binh thường, chưa biểu lộ được một chút đặc sắc gì về môn học của thầy và vẫn nghĩ rằng mình chẳng có gì đáng được thầy để ý. Vậy mà bỗng nhiên được thầy đến chơi. Nhìn quanh trong nhà thấy không có gì đáng đem ra mời thầy, tôi chỉ vào bếp rót bát nước chè xanh đưa lên bàn rồi ngồi nghe thầy nói. Thầy ân cần hỏi thăm về tình hình sinh hoạt, học hành, khuyến khích phải chăm học, đừng để uổng phí tuổi trẻ. Trời bỗng nhiên nhiều mây, rồi lất phất mưa bụi. Tôi mừng vì lưu giữ được thầy ở lại lâu hơn, nhưng thật băn khoăn vì tiếp thầy quá ư đạm bạc. Bỗng thầy nhìn ra ngoài vườn rồi bảo tôi: “Cậu ra hái quả khế chua vào đây”. Trời ơi! Chẳng lẽ tiếp thầy bằng mấy quả khế chua sao? Hái khế xong, tôi đang lúng túng vì không tìm ra được thứ gì có thể ăn với khế ( chút đường ngọt cũng không có), thì lại nghe thầy bảo: “Tìm trong nhà có cái bình vôi đưa ra đây”. Tôi tìm được bình vôi (ăn trầu) đưa ra, thầy điềm nhiên cầm chìa vôi quệt một ít vôi trong bình ra đĩa rồi cắt khế ra từng miếng, chấm vào vôi và đưa lên miệng. “Cậu có biết ăn cách này không?” – Thầy hỏi. Tôi xúc động nghẹn ngào “Có ạ”, rồi hai thầy trò cùng ngồi nhấm nháp bữa tiệc “ khế chấm vôi” và nghe thầy kể bao nhiêu chuyện thú vị về văn hóa sinh hoạt ẩm thực của quê hương. Cho đến nay đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhưng kỷ niệm về “bữa tiệc”độc đáo đó vẫn không bao giờ phai mờ trong ký ức tôi, với hình ảnh thân thiết bình dị của thầy và bữa tiệc “khế” như của hai cha con nông dân nghèo trong mái nhà tranh của tuổi thơ quê hương.
Giai đoạn 1953 – 1954 là một giai đoạn nhiều xáo trộn bi thương trên mảnh đất quê hương Nghệ Tĩnh của chúng tôi. Bên cạnh những niềm vui lớn về những chiến thắng của cuộc kháng chiến đang dần đi đến hồi kết, thì những màn đấu tố từ các phong trào “ chống phản động” rồi “giảm tô”, “ cải cách ruộng đất” càng ngày càng gay gắt, đưa cả một vùng quê vào cảnh xáo trộn. Thầy giáo và cả các anh chị học sinh lớn tuổi của trường tôi không hiểu vì sao cũng trở thành đối tượng của cuộc đấu tố đó.
Tôi thấy thầy Nghệ vắng mặt ở trường một thời gian. Cho đến một buổi sáng trời mưa phùn vảo khoảng giữa năm 1954, tôi đang đi bộ một mình trên đường từ Lạc Thiện lên thị trấn Đức Thọ thì bổng gặp thầy trong một hoàn cảnh thật trở trêu. Đường xa mỏi mệt, đang lủi thủi một mình thì thấy từ xa đi theo hướng ngược lại một tốp ba người, người đi giữa dáng cao lớn, mang một chiếc tơi lá, hai người đi kèm sau là hai dân quân, một người cầm súng, một người cầm gậy. Đi gần thêm một chút, tôi bổng rụng rời nhân ra người đi giữa là thầy Nghệ kính yêu của mình. Tôi không khóc được. Tôi có cảm tưởng thầy cũng nhìn thấy tôi vì thấy thầy chững lại một bước chân. Rồi tất cả lại tiếp tục đi. Tôi hét lên một tiếng “ Thầy ơi!”và nghe tiếng quát lại của anh dân quân “Đi đi” và thế là hết. Tôi nhìn vuốt theo bóng thầy đi cao đạo điềm đạm giữa trời mù sương mãi cho đến khi khuất bóng.
Một năm sau, giữa đường phố Tràng tiền của Hà Nội sau ngày giải phóng, tôi tình cờ lại gặp được thầy. Tôi đã qua cái thời thơ bé và thầy đã có thể nói chuyện với tôi ít nhiều về thời cuộc, về thế thái nhân tình. Hai thầy trò cùng đi dạo mát một lát, ôn lại những câu chuyện học hành của tôi, còn tôi, vẫn với niềm ngưỡng mộ đối với thầy như xưa, tôi không dám hỏi những chuyện mà tôi e là thầy cũng không muốn trả lời. Đó là vào khoảng thời gian mà báo “Nhân văn” mới bị đình bản, và vụ “Nhân văn, Giai phẩm” đang bắt đầu bị lên án gắt gao, và theo lời đồn đại, thì thầy cũng không phải hoàn toàn bàng quan với những xu hướng đó.
Bẵng đi mấy chục năm, đất nước và quê hương đã đi qua một cuộc chiến tranh khốc liệt, những năm tháng hòa bình nhưng còn đói nghèo vất vả. Cho đến đầu thập niên 1990, tôi mới được gặp thầy. Thầy đã già, nhưng vẫn quắc thước như xưa. Một lần đến thăm thầy, trước khi ra về, bỗng thầy cầm tay tôi và hỏi: “ Nghe nói gần đây cậu có một số bài viết được nhiều người quan tâm, lần sau có đến đưa cho mình xem nhé!”. Tôi vâng dạ, nhưng tiếc là chưa tìm lại được những bài mà thầy yêu cầu thì được biết thầy đã về Hà Tĩnh. Và với lần về quê đó thầy đã mãi mãi không ra Hà Nội nữa. Theo lời nhắn của thầy qua bạn Nguyễn Quang Thân, tôi có kịp nói chuyện qua điện thoại với thầy một lần, chúc thầy mạnh khỏe để còn hy vọng gặp lại thầy. Nhưng rồi, thầy đã ra đi. Hôm đến viếng thầy ở nhà cô Lành ( Con gái thầy) tôi được xem mấy tấm ảnh về phần mộ của thầy, nơi yên nghỉ của thầy đặt ở lưng chừng núi, nhìn ra một vùng non xanh nước biếc của mây trời Hương Sơn, tôi thầm cầu chúc cho hương hồn của thầy được mãi thanh thản cùng đất trời non nước. Thầy, một con người thanh cao mà bình dị.
Tháng 8 năm 2004
 
 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114528712

Hôm nay

293

Hôm qua

2275

Tuần này

2985

Tháng này

215408

Tháng qua

0

Tất cả

114528712