Nhìn ra thế giới

Tranh chấp trên Biển Đông, TPP và những nước cờ địa chính trị

1.  Bản chất của tranh chấp chủ quyền tại Biển đông

Chủ quyền quốc gia về vùng đặc quyền kinh tế biển và trật tự hàng hải quốc tế đã được phân định rõ theo công ước quốc tế về luật biển (UNCLOS). Tranh chấp chỉ trở nên căng thẳng, khi Trung quốc đơn phương đòi hỏi chủ quyền, chiếm tới 80% Biển Đông. Và từng bước hiện thực hóa nó bằng việc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của các nước lân bang. Ví dụ như vụ đưa dàn khoan 981 vào vùng biển của Việt nam vào năm 2014. Và tiếp đó trong năm 2015, Trung quốc tiếp tục tôn tạo, xây đắp các đảo nhân tạo trên các bãi đá thuộc Trường sa, đã chiếm của Việt nam bằng vũ lực. Để hiểu  tại sao những tranh chấp đó có thể xẩy ra, chúng ta cần phải hiểu rõ khái niệm về chủ quyền.

  Chủ quyền của một quốc gia (souvereignty) có thể được hiểu theo hai nghĩa chính[1]: (1) Theo sự công nhận của cộng đồng quốc tế, và đi kèm theo đó là các công ước quốc tế về chủ quyền. (2)  Theo khả năng của nhà nước trong việc bảo vệ chủ quyền của quốc gia, mà cơ bản nhất là đảm bảo an ninh quốc phòng;  bảo vệ quyền của người dân khai thác tài nguyên và sinh sống trên nơi mà cha ông họ đã sinh sống, dù là trên đất liền, hay trên biển đảo. Khi hai đòi hỏi này không tương thích nhau, tức là khả năng đảm bảo về an ninh quốc gia không cân xứng với quyền được công nhận bởi công ước quốc tế, thì sự tranh chấp về chủ quyền dễ nổ ra.  

Như vậy, chủ quyền quốc gia không phải là một khái niệm tuyệt đối, có tính vĩnh hằng, mà mang tính tương đối. Với sự bất cân xứng vốn có về sức mạnh kinh tế và quân sự giữa các quốc gia, thì các quan hệ kinh tế, chính trị và quân sự giữa các quốc gia khác nhau, chia sẻ cùng một lợi ích chiến lược, mà nó phù hợp với công ước và luật pháp quốc tế, sẽ tạo ra khối liên minh chính thức hay phi chính thức. Chẳng hạn như việc Mỹ thúc đẩy việc lập ra khối ASEAN trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Sức mạnh của khối hay liên minh, tạo ra một sự răn đe hữu hiệu đối với sự chèn ép hay xâm lấn của bất kỳ quốc gia nào mạnh hơn với một quốc gia nhỏ, thuộc liên minh. Một khi liên minh bị suy yếu đi, thì sự cân bằng về trật tự quốc tế và khu vực bị đảo lộn, do xuất hiện những vùng trống về quyền lực. Tuy nhiên, sự thay đổi về trật tự khu vực đó có trở thành một xu thế hay không, phụ thuộc rất nhiều vào tính chính nghĩa của tiến trình như vậy. Tức là nó có phù hợp với chuẩn mực về trật tự quốc tế, được hầu hết các quốc gia trên Thế giới công nhận hay không.

Những năm 2008 - 2010 chứng kiến cuộc khủng hoảng toàn cầu, bắt đầu từ Mỹ, lan dần sang các nước Tây Âu. Điều đó kéo theo hai hệ lụy: Thứ nhất, Nước Mỹ, do áp lực nợ chồng chất sau 2 cuộc chiến ở Iraq và Afganixtan và khủng hoảng kinh tế, đã bị yếu đi rất nhiều về khả năng triển khai sức mạnh  để duy trì trật tự quốc tế tại các vùng biển có tính chiến lược. Thứ hai, sự suy yếu đi của kinh tế Mỹ sau khủng hoảng, cộng với sự trỗi dậy của Trung quốc, đã làm thay đổi các dòng thương mại, vốn đầu tư quốc tế theo hướng biến các nước thuộc vùng ngoại biên (periphery) xích lại gần hơn, phụ thuộc nhiều hơn vào sức mạnh kinh tế và quyền lực mềm của Trung quốc. Việc Trung quốc vươn tầm ảnh hưởng về kinh tế, thương mại sang các nước thuộc Đông nam Á, Châu Phi, và cả Mỹ Latinh, thể hiện xu thế này. Nói khác đi, trật  tự hiện hữu bị yếu đi. Cùng với nó là khả năng bảo vệ chủ quyền của các quốc gia thành viên thuộc liên minh, như Nhật – Mỹ,  hay khối hợp tác, như ASEAN, bị thách thức.

 Trong bối cảnh đó, Trung quốc đứng trước hai lựa chọn: Thứ nhất, phối hợp với các cường quốc trên Thế giới, đứng đầu là Mỹ, nhằm duy trì trật tự khu vực; củng cố sự ổn định và phát triển phồn thịnh, dựa trên hợp tác và thương mại toàn cầu. Thứ hai, thay thế Mỹ, hình thành trật tự Thế giới mới và lập liên minh quân sự mới do Trung quốc đứng đầu, nhằm cưỡng chế sự tuân thủ trật tự mới đó[2].

Trên thực tế, Trung quốc đã lựa chọn con đường thứ hai làm mục tiêu dài hạn của mình. Tiến trình này bắt đầu bằng việc vi phạm công ước quốc tế về phân chia lãnh hải (UNCLOS) trên Biển đông, nhằm từng bước biến nó thành vùng biển thuộc Trung quốc. Điểm cốt lõi ở đây là có sự khác biệt rất rõ ràng giữa tuyến hàng hải quốc tế với tuyến hàng hải thuộc địa phận Trung quốc. Khi nẩy sinh mâu thuẫn chính trị hay xung đột về lợi ích, Trung quốc có thể dùng quyền kiểm soát để cấm quốc gia có liên quan thông thương trên vùng Biển đông, mặc dù về nguyên tắc, Trung quốc cam kết duy trì tự do hàng hải. Sự chèn ép ở quy mô quốc tế này không thể xẩy ra, nếu Trung quốc không thể áp đặt được quyền kiểm soát trên thực tế (de facto control rights) về vùng biển bị bao quang bởi đường chữ U. Như vậy, xung đột chủ quyền tại Biển đông hiện nay không phải chỉ là vấn đề song phương, mà là vấn đề về an ninh khu vực và thương mại toàn cầu. Trung quốc hiểu rất rõ điều đó. Và Trung quốc hiểu rằng, Mỹ, Nhật và các cường quốc khác trên Thế giới, cũng hiểu là Trung quốc đang toan tính gì. Cuộc chơi chèn ép (holdup problem) trên bình diện quốc tế này thể hiện tham vọng mà Trung quốc đang theo đuổi trong dài hạn. Việc phân tích kỹ ván bài đó sẽ tạo nên sự đồng thuận quốc tế nhằm giải quyết xung đột hiện thời, được Trung quốc tô điểm thành xung đột song phương với các nước lân bang về chủ quyền “không thể tranh cãi”, mà Trung quốc là bên bị xâm hại.                   

2. Chủ quyền quốc gia và vấn đề chèn ép

Như đã nêu, mục tiêu dài hạn của Trung quốc là nhằm kiểm soát con đường hàng hải quốc tế, đi từ Trung cận đông qua Ấn độ dương, và đi vào Biển đông. Theo đà tăng trưởng kinh tế, con đường biển này ngày càng trở nên có tính sống còn với Trung quốc[3]. Nhưng nó cũng có tính chất sống còn với Mỹ, Nhật và các nước trong vùng. Một sự hợp tác an ninh hàng hải quốc tế giữa Trung quốc với Mỹ, Nhật và ASEAN sẽ là lý tưởng cho sự ổn định và phồn thịnh của khu vực. Nhưng việc biến vùng biển quốc tế đó thành lãnh hải thuộc địa phận Trung quốc, lại là một bảo đảm an ninh hơn cho Trung quốc, với cái giá là chủ quyền của các nước nhỏ hơn trong khu vực bị xâm hại. Nói khác đi, chúng ta đang chứng kiến một tiến trình mà Trung quốc đang tìm cách chèn ép các nước nhỏ để vẽ lại bản đồ khu vực. Sự chèn ép, hay tranh chấp song phương về chủ quyền biển đảo, quyền khai thác dầu và đánh bắt cá, chỉ là bước đi ban đầu, được lồng trong một tranh chấp lớn hơn về quyền kiểm soát đường hàng hải chiến lược đi qua Biển đông, với hơn 1/3 thương mại toàn cầu đi qua vùng biển này. Để tránh một cuộc xung đột về quyền tự do hàng hải trong tương lai, chúng ta phải hiểu rõ sự được mất của mỗi bên trong cuộc chơi chèn ép về chủ quyền song phương, mà Trung quốc đang tiến hành. Trung quốc kỳ vọng gì? Và tại sao việc chèn ép các nước nhỏ lại là các bước đệm ngắn hạn cho việc đạt mục tiêu dài hạn của Trung quốc là kiểm soát con đường hàng hải chiến lược qua Biển đông? Việc trả lời các câu hỏi như vậy sẽ cho phép tìm ra cơ chế thúc đẩy an ninh khu vực,thông  qua các giải pháp thương lượng hòa bình.

Để cụ thể, hãy nhìn lại vụ Trung quốc cắt cáp tham dò dầu khí của Tầu Bình minh 02 của Việt nam vào các năm 2011, 2012, hay là việc đưa dàn khoan 981 vào lãnh hải Việt nam vào năm 2014. Hoặc việc Trung quốc cho xây dựng cột sắt và thả phao ở bãi Amy Douglas vào 2011 và chiếm bãi cạn Scarborough vào 2012. Trước các hành động gây hấn như vậy của Trung quốc, phía Việt nam và Philippins có thể có năm lựa chọn chính: Thứ nhất, không có phản ứng gì. Thứ hai, ra công hàm phản đối hành động gây hấn của Trung quốc trên các diễn đàn song phương hoặc đa phương, như tại Liên hiệp quốc. Thứ ba, đem vụ việc ra kiện ở Tòa án Quốc tế. Thứ tư, có hành động tự vệ một cách kiềm chế, nhưng thực chất, vẫn sẵn lòng nhân nhượng để tránh xung đột leo thang. Chẳng hạn như việc Philippins cho nhổ các cột sắt, hoặc cho bắt giữ tàu đánh cá Trung quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và đòi xử họ theo luật. Hay Việt nam cho lực lượng cảnh sát biển ra yêu cầu phía Trung quốc di rời dàn khoan 981. Thứ năm, kiên quyết bảo vệ sự toàn vẹn chủ quyền, mà không có bất cứ một sự nhân nhượng nào. Ví dụ như việc Nhật quốc hữu hóa Senkaku; và Mỹ tuyên bố đưa Senkaku vào trong phạm vi của hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ.

Cần phải nói rằng, nếu vụ việc chỉ gói gọn trong xung đột có tính song phương, thì việc ra công hàm phản đối cũng gần giống như không làm gì cả. Mặt khác, việc đem ra kiện tại tòa án quốc tế về tranh chấp đánh bắt cá hay khai thác dầu, thường hết sức tốn kém, mất thời gian và dễ bị làm cho rắm rối, do luật quốc tế không thể đủ chi tiết để áp dụng ngay cho việc xử các vụ kiện như vậy. Cuối cùng, khi xẩy ra một chuỗi các vụ tranh chấp liên tiếp, thì tính phức tạp của vụ việc chỉ có tăng. Và nguy cơ xung đột có thể nổ ra. Điều đó dĩ nhiên chỉ có lợi cho bên lớn hơn, dùng sức mạnh để chèn ép, hơn là bên nhỏ hơn, bị xâm hại, nhưng buộc phải phản ứng có kiềm chế và thỏa hiệp. Về lâu dài, điều đó cũng giống như không làm gì để tránh nổ ra xung đột.     

Như vậy, xét trên quan điểm của Trung quốc, việc gây hấn về quyền đánh bắt cá hay khai thác dầu trong vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia nhỏ hơn trên Biển đông sẽ có lợi ở chỗ: (i) Trung quốc có thể giữ cho mức độ xung đột đủ nhỏ, để mâu thuẫn mang tính song phương, mà phía bị xâm hại ít làm được gì để thay đổi cục diện tình hình; và (ii) Chuỗi xung đột phải đủ liên tụcđều khắp ở các điểm chiến lược trên Biển đông, để biến các sự việc đã rồi thành quyền kiểm soát trên thực tế của Trung quốc về việc khai thác các nguồn lợi, mà chỉ quốc gia có chủ quyền được phép làm. Nói rõ hơn, việc Philippins xua đuổi tầu cá Trung quốc hay nhổ cọc ở bãi đá mà Trung quốc vừa dựng lên chỉ làm tăng rủi ro bị Bắc kinh tuyên bố rằng, Philippins sẽ phải hứng chịu các hành động “chấp pháp” của Trung quốc. Sức mạnh quân sự vượt trội và ngày càng mạnh của Trung quốc khiến cho nước nhỏ trong vùng phải đối mặt với rủi ro là sẽ chịu tổn thất rất lớn, nếu một mình dám cưỡng lại hành động “chấp pháp” của Trung quốc. Nhìn trước kết cục như vậy, nước nhỏ đó có thể phải ngồi yên không làm gì, ngoài việc ra công hàm phản đối, mà về thực chất cũng là không làm gì. Chính vì logic của sự chèn ép đó, mà Việt nam ngồi yên, khi Trung quốc ra lệnh cấm bắt cá trong thời gian dài, trên một vùng biển rộng lớn, bao gồm cả thềm lục địa của Việt nam. Cam chịu sẽ dần biến thành sự buộc phải chấp thuận quyền kiểm soát trên thực tế của Trung quốc đối với Biển đông. Khi đó, việc có hay không các công ước về luật Biển, bao hàm cả UNCLOS, thì cũng chẳng thể làm được gì nhiều để thay đổi một thực tế: Đường chữ U đã được xác lập dần trên thực tế. Điều đó bao hàm rằng, đường hàng hải chiến lược đi qua Biển đông, dần sẽ thuộc về Trung quốc. Các nước khác sẽ buộc phải tuân thủ trật tự mới, được cưỡng chế bởi sức mạnh quân sự của Trung quốc, theo dự đoán là có thể thách thức Mỹ ở Tây Thái bình Dương vào năm 2030.

Chiến lược chèn ép của Trung quốc nhằm thôn tính Biển đông có thể được tóm tắt như sau:

Ngay sau vụ việc Trung quốc xâm hại quyền khai thác tài nguyên thuộc chủ quyền nước khác, như đánh bắt cá hoặc khai thác dầu của Việt nam / Philippines. Cụ thể là vụ dàn khoan 981. Nếu không gặp phải phản ứng gì, thì Trung quốc sẽ ghi được 1 điểm trong chuỗi các bước chèn ép nhằm thôn tính Biển đông. Trong hoàn cảnh đó, Việt nam / Philippins bị mất 1 điểm trong việc bảo vệ chủ quyền.

Một lựa chọn khác là thay vì ngồi yên, Việt nam / Philippins có thể có phản ứng tự vệ một cách cương quyết, phù hợp với thỏa thuận khu vực và công ước quốc tế. Nhưng ngay sau khi vấp phải sự phản ứng tự vệ đó của Việt nam / Philippines, Trung quốc có thể đáp lại bằng hai cách: Thứ nhất, tôn trọng cam kết của mình về nguyên tắc ứng xử Biển đông (DOC) và Luật Biển quốc tế (UNCLOS). Khi đó, các bên đạt được sự hòa giải sau xung đột vừa xẩy ra. Trung quốc không ghi thêm được điểm nào trong chuỗi các bước thôn tính Biển đông (ghi điểm 0). Và Việt nam / Philippins cũng không bị mất điểm về chủ quyền (tức là “mất” 0 điểm).

Ngược lại, Trung quốc có thể nuốt lời hứa tôn trọng thỏa thuận khu vực và Luật quốc tế. Cụ thể là Trung quốc tô vẽ lại vụ việc xung đột vừa xẩy ra như mình là bên bị xâm hại và vì vậy, buộc phải có hành động “chấp pháp”.  Với sự bất cân xứng về sức mạnh kinh tế và quân sự, phần thắng trong xung đột song phương sẽ thuộc về kẻ nào mạnh hơn, bất kể công lý. Cụ thể là, Trung quốc ghi được 2 điểm liên tiếp trong chuỗi các bước “xác định lại” trật tự khu vực. Việt nam / Philippins bị mất 2 điểm. Các tình huống trên được biểu diễn bởi lược đồ sau:

Sơ đồ 1: Cuộc chơi chèn ép chủ quyền song phươngdo Trung quốc tiến hành

Ta có thể thấy là, nếu Việt nam / Philippins “phản ứng tự vệ” một cách đơn phương,  thì việc “xác định lại” trật tự khu vực sẽ diễn ra nhanh hơn. Nhìn trước kết cục như vậy, thì ngay từ đầu, khi vừa xẩy ra việc Trung quốc gây hấn (vụ giàn khoan 981, hay vụ chiếm bãi cạn Scarborough), Việt nam / Philippines sẽ chọn việc gửi công hàm phản đối, hoặc kiên trì thuyết phục, tuyên truyền, mà không có hành động tự vệ trên thực tế. Kết cục là Trung quốc chỉ ghi được 1 điểm. Việt nam / Philippins chỉ bị mất có 1 điểm về bảo vệ chủ quyền. Dù sao đi nữa, chủ quyền của Việt nam / Philippins vẫn bị xâm hại.

3. Đa phương hóa việc xử lý chèn ép lãnh thổ

Trong cuộc chơi chèn ép song phương đã mô tả ở trên, điểm mạnh của Việt nam / Philippins là công luận quốc tế đứng về phía mình. Tính phiêu lưu trong chiến lược chèn ép của Trung quốc là nó ngày một đẩy Mỹ và các đồng minh của Mỹ là Nhật bản, Tây Âu, bao gồm cả Úc, và cả Ấn độ, vào thế phải đối đầu với Trung quốc trong một cuộc cạnh tranh về tự do hàng hải. Cụ thể là xung đột trong tương lai về quyền tự do lưu thông và an ninh hàng hải ở Tây Thái bình dương, mà nó có thể lan sang Ấn độ dương,  một khi Việt nam / Philippins và các nước trong khu vực bị mất dần chủ quyền và rơi vào quỹ đạo của Trung quốc. Như vậy, song song với cuộc chơi chèn ép các nước nhỏ, Trung quốc tiến hành một cuộc chơi khác, giành thế và lực trong cuộc cạnh tranh hay đối đầu trong tương lai về trật tự khu vực với Mỹ, Nhật, Úc và cả Ấn độ. Xét ở thời điểm hiện tại, hai cuộc chơi này không phải là không liên đới nhau.

Cụ thể là, trước sự chèn ép của Trung quốc, việc gia nhập vào khối các quốc gia, liên kết với nhau ngày càng mạnh hơn về thể chế tổ chức, trao đổi thương mại, và gìn giữ an ninh khu vực, tự nó sẽ cho phép Việt nam / Philippins bảo vệ chủ quyền của mình hữu hiệu hơn. Một khi khả năng tự chủ của Việt nam / Philippins về thể chế tổ chức, kinh tế, và an ninh, tăng lên, thì sẽ làm tăng khả năng “tái cân bằng” (rebalance) ảnh hưởng địa chính trị giữa các cường quốc tại khu vực Đông nam Á. Tức là làm tăng  khả năng đối thoại và hợp tác trong cuộc chơi thứ hai, nhằm bảo vệ trật tự hiện hữu tại khu vực.

Phân tích trên đây cho thấy, cuộc chơi chèn ép chủ quyền song phương mà Trung quốc tiến hành với nước nhỏ hơn trong vùng đã thay đổi về bản chất. Bây giờ, nó bị kết nối với cuộc chơi khác, nhằm xác định trật tự hàng hải giữa Trung quốc và Mỹ. Cuộc chơi thứ hai không đơn thuần là sự đối đầu trực diện giữa hai siêu cường. Nó được lồng trong việc hình thành khối các quốc gia liên kết về nhiều mặt trong quan hệ quốc tế, chẳng hạn như việc ký kết TPP, nhằm đối trọng lại với ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung quốc tại khu vực Đông nam Á, mà tranh chấp Biển đông là tâm điểm. Để hiểu những kết cục gì có thể xẩy ra trong tương lai, chúng ta hãy hiện thực hóa hơn nữa cuộc chơi chèn ép song phương, mô tả ở Sơ đồ 16.1, bằng việc đưa thêm vào sự lựa chọn của Việt nam (hoặc Philippins) tham gia vào khối hợp tác giữa các quốc gia, như hợp tác TPP.

Cuộc chơi trong Sơ đồ .2 khác với cuộc chơi chèn ép song phương, mô tả ở Sơ đồ 1, ở chỗ Việt nam có thêm sự lựa chọn tham dự vào quan hệ đối tác trên nhiều lĩnh vực với một khối các quốc gia. Để cho cụ thể, ta hãy lấy triển vọng ký kết TPP làm ví dụ.

Chúng ta đơn giản hóa những chi tiết không cần thiết và giả sử rằng, TPP chỉ bao gồm Việt nam và Mỹ. Sau khi Việt nam xin gia nhập TPP, thì Mỹ và Việt nam sẽ cùng tham dự một cuộc chơi phối hợp, xác định tương lai của TPP. Một triển vọng lạc quan là, Mỹ và Việt nam sẽ cam kết thúc đẩy các thay đổi về thể chế kinh tế. Chẳng hạn như việc chấm dứt trợ cấp các doanh nghiệp Nhà nước. Quan trọng hơn, đó là việc du nhập dần các thể chế quản trị tiến bộ từ các nền kinh tế thị trường hiện đại vào xã hội truyền thống ở Việt nam. Nhờ vậy, năng suất lao động và suất sinh lời của vốn tăng lên. Tức là làm tăng khả năng thu hút vốn FDI; cũng như tạo ra dòng  lao động có chất lượng cao chẩy vào Việt nam[4]. Hệ quả là có sự gia tăng giao dịch thương mại hai chiều và tăng trưởng kinh tế bền vững của cả hai quốc gia. Điều này đã diễn ra trong quan hệ song phương giữa Mỹ với Singapore;  Hong Kong, Đài loan, hoặc Hàn quốc, trong thập niên 1960-70. Và quan hệ hợp tác đó tiếp tục phát triển cho tới ngày nay. 

Trong triển vọng trung và dài hạn, sự gia tăng sức mạnh kinh tế - thương mại của toàn khối sẽ cho phép tái cân bằng lại ảnh hưởng của các cường quốc tại Châu Á – Thái bình Dương, trước một Trung quốc đang lên. Trong bối cảnh như vậy, Mỹ sẽ có lợi ích lớn hơn (và tổn phí ít hơn) trong việc “cam kết” bảo vệ trật tự khu vực và tự do hàng hải tại Biển đông, mà nó là điều kiện cần thiết cho tự do thương mại trong toàn khối TPP.

Sơ đồ 2: Cuộc chơi chèn ép chủ quyền khi kết nối với cuộc chơi xác định trật tự hàng hải[5]

Để cho cụ thể, ta xem rằng, nếu Trung quốc “tôn trọng thỏa ước”, bao gồm cả  UNCLOS, thì Mỹ sẽ được lợi 4 điểm. Ngược lại, nếu Trung quốc muốn  “xác định lại” bản đồ khu vực, nhưng Mỹ  giữ “cam kết” bảo vệ trật tự hiện hữu, thì Mỹ vẫn được lợi ròng là 1 điểm. Với điều kiện là TPP được làm cho có hiệu lực. Về phía mình, Trung quốc cũng sẽ thấy có lợi hơn trong việc “tôn trọng thỏa ước”, vì nó thúc đẩy giao thương quốc tế và có lợi cho tăng trưởng kinh tế của Trung quốc (được 1 điểm). Lựa chọn đó rõ ràng là tốt hơn việc “xác định lại” bản đồ khu vực, vì Trung quốc sẽ vấp phải cam kết của Mỹ và các quốc gia khác trong việc duy trì công ước quốc tế về biển, UNCLOS. Trong đó có quy định về vùng đặc quyền kinh tế của từng quốc gia, và quyền tự do hàng hải quốc tế (mất 1 điểm).

Như vậy, khả năng cam kết duy trì trật tự khu vực được làm cho có hiệu lực. Điều đó bao hàm rằng,  thay vì bị chèn ép song phương, Việt nam sẽ hưởng lợi nhờ hợp tác đa phương TPP (được 1 điểm). Nhìn thấy triển vọng đó, Việt nam sẽ tham gia TPP và cam kết cải cách thể chế kinh tế. Chuyến thăm lịch sử của Tổng bí Thư Nguyễn phú Trọng sang Mỹ đã đánh dấu sự khởi đầu của một tiến trình như vậy.

Nhưng một cách thực tế, chúng ta phải nhìn nhận một khả năng khác, là sau khi Việt nam gia nhập TPP, cuộc chơi phối hợp giữa Việt nam và Mỹ đem lại kết cục tồi: sự khác biệt về thể chế tổ chức, khoảng cách về năng suất lao động và năng lực cạnh tranh giữa hai nền kinh tế ngày càng mở rộng. TPP vẫn chỉ là sân chơi của các quốc gia đã phát triển nhất. Và sự thay đổi về thể chế, theo hướng thúc đẩy tiến bộ về kinh tế và xã hội ở các quốc gia đang phát triển như Việt nam, bị dậm chân tại chỗ hoặc bị đảo lộn.

Trước một Trung quốc đang lên, và sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất trong vòng một thập kỷ tới, thì các nước nhỏ ở vùng ngoại vi, bao gồm cả Việt nam, sẽ rơi vào quỹ đạo của Trung quốc. Và chiến lược “tái cân bằng” của Mỹ sẽ bị suy yếu nghiêm trọng; hoặc có nguy cơ bị phá sản. Mỹ sẽ đứng trước một triển vọng là có lợi ích ít hơn nhiều (và tổn phí cao hơn nhiều) trong việc “cam kết” bảo vệ trật tự khu vực, bao hàm cả việc duy trì công ước quốc tế về luật Biển (UNCLOS) tại khu vực có tranh chấp là Biển đông. Trong khi đó, hiệp định tự do thương mại giữa Trung quốc với ASEAN, hoặc với Hàn quốc và Nhật bản, có thể phát huy ảnh hưởng, làm yếu liên kết TPP. Trung quốc khi đó sẽ trở nên quyết đoán hơn trong tranh chấp trên Biển đông.  

Như vậy, có sự thay đổi về kỳ vọng được / mất trong chiến lược của cả Mỹ và Trung quốc. Cụ thể là, nếu Mỹ tiếp tục giữ “cam kết”, thì tổn thất có thể sẽ lớn hơn, so với việc Mỹ “thỏa hiệp” với Trung quốc, một khi Trung quốc quả quyết hơn trong việc khẳng định chủ quyền đơn phương tại Biển đông. Ngược lại, Trung quốc sẽ chịu tổn thất nhiều hơn, nếu không nắm quyền kiểm soát tuyến đường hàng hải huyết mạch. Vì nó đảm bảo cho thương mại của Trung quốc với Châu Á và phần còn lại của Thế giới không bị làm chao đảo bởi tranh chấp, dẫn đến xung đột trên biển.

Nói khác đi, Trung quốc có chiến lược trội (dominant strategy) là “xác định lại” trật tự khu vực. Trong khi Mỹ sẽ phải chịu tổn phí cao hơn nếu giữ “cam kết”, hơn là “thỏa hiệp”. Vì vậy, Mỹ sẽ nghiêng về phía “thỏa hiệp”.  (Xem sơ đồ 3, phần phụ lục).

Kết cục này giống như nhánh cuối, về bên phải ở Sơ đồ 2. Nó thể hiện việc Trung quốc sẽ lựa chọn “xác định lại” trật tự khu vực (được 3 điểm), hơn là “tôn trọng thỏa ước”. Rõ ràng rằng, Trung quốc được lợi hơn nhiều, một khi “cam kết” tái cân bằng của Mỹ tại Châu Á – Thái bình Dương không được làm cho có hiệu lực. Và Mỹ sẽ bị thiệt (mất -L điểm); nhưng tổn thất đó vẫn ít hơn, so với trường hợp không chấp nhận “thỏa hiệp” với Trung quốc.

Việt nam sẽ bị thiệt hại nhất trong trường hợp này  (- K điểm, và K là một số rất lớn), vì bị bỏ rơi bởi hầu hết các nước lớn trên bàn cờ địa chính trị trong khu vực.

Như vậy, cuộc chơi phối hợp giữa Mỹ và Việt nam, sau khi Việt nam xin gia nhập TPP, mang tính quyết định. Nếu sự phối hợp giữa Mỹ và Việt nam trong việc cải cách thể có bước tiến triển rõ ràng, thì có sự gia tăng quan hệ thương mại hai chiều. Điều đó làm thu hẹp dần sự khác biệt giữa hai quốc gia, như trong quan hệ giữa Mỹ với 4 con rồng Châu Á. Khi đó, tất cả các bên liên quan, kể cả Trung quốc, sẽ có lợi trong việc hợp tác nhằm duy trì ổn định khu vực và phát triển thương mại. Vì vậy, tranh chấp khu vực sẽ có chiều hướng được giải quyết thông qua đàm phán hòa bình. Ngược lại, nếu sự phối hợp giữa Mỹ và Việt nam bị thất bại, thì điều đó làm tăng khả năng xẩy ra tranh chấp nóng hơn trên Biển đông, mà Mỹ sẽ ít bị thiệt hơn, nếu thỏa thuận với Trung quốc trong việc “chia sẻ lại” vùng ảnh hưởng.  

Dù gì đi nữa, sự thất bại trong chiến lược tái cân bằng vẫn sẽ là một tổn thất mang tính chiến lược dài hạn. Nếu tổn thất do suy giảm ảnh hưởng địa chính trị tại Châu Á đối với Mỹ (-L) là rất lớn, thì “cam kết” tái cân bằng của Mỹ cần phải làm cho có hiệu lực. Điều đó bao hàm rằng, trong cuộc chơi phối hợp giữa Mỹ và Việt nam, phía Mỹ cần có một sự cẩn trọng trong thiết kế chính sách hỗ trợ cải cách thể chế tại Việt nam. Vấn đề là, thể chế là một dạng vốn (capital). Và cũng như mọi dạng vốn, sự thay đổi thể chế chỉ có thể diễn ra từ từ (Arrow, 1994). Do vậy, cải cách ở Việt nam  cần có lộ trình và mục tiêu rõ ràng, nhằm tăng khả năng cam kết đổi mới thể chế (Dixit, Nalebuff, 1992). Nhờ đó, Việt nam sẽ từng bước hiện đại hóa nền kinh tế trong khuôn khổ hợp tác TPP. Điều đó sẽ đóng góp vào việc tái cân bằng ảnh hưởng địa chính trị giữa Mỹ, Nhật và cả Ấn độ, đối với Trung quốc tại Châu Á.

Nói khác đi, cuộc chơi phối hợp giữa Mỹ và Việt nam là một quá trình phối hợp dài hạn (repeated game). Đó không phải là một cuộc chơi ngắn hạn (one-shot game), mà chỉ cần đội cái mark là thành viên TPP thì sự thần kỳ về kinh tế sẽ đến ngay, như nhiều người ở Việt nam nghĩ, hay kỳ vọng. Quan trọng hơn, việc cho rằng TPP sẽ đem lại cái lợi chóng vánh, mà không cần phải nỗ lực hiện đại hóa về tổ chức nhằm du nhập tiến bộ công nghệ, thì sẽ chỉ làm tăng hơn nữa khả năng rằng, kết cục tồi sẽ xẩy ra. Sẽ không có một sự chuyển mình thần kỳ, mà thay vào đó là sự thụt lùi về thể chế và kinh tế. Hoặc tiến trình hiện đại hóa, công nghiệp hóa bị làm cho đảo lộn. (Xem chứng minh ở phần phụ lục).

Như vậy, làm cho mọi người hiểu rằng, TPP là một tiến trình hợp tác dài hạn, nhằm đem lại ổn định và thịnh vượng cho khu vực, là làm tăng khả năng đạt được kết cục tốt cho mọi thành viên trong khu vực, kể cả Trung quốc, Mỹ và Việt nam. Và việc tạo ra một ảo tưởng về sự thay đổi chóng vánh có tính thần kỳ, sau đàm phán TPP, thì sẽ chỉ làm tăng khả năng đưa đến kết cục ngược lại: sự phá sản của chiến lược tái cân bằng của Mỹ. Và Việt nam có thể bị bỏ rơi trong cuộc chia lại quyền ảnh hưởng địa chính trị và kinh tế giữa các nước lớn tại khu vực.

4  Kết luận

TPP không phải là một “cây gậy thần”, chỉ cần dựa vào đó, mà không cần phải có nỗ lực gì cả. Và TPP cũng không phải là cái ô bảo hộ của một nước lớn giành cho Việt nam, trước sự chèn ép của một nước thứ ba. Việt nam phải chủ động làm tăng khả năng phối hợp với các quốc gia đã phát triển ở lĩnh vực, mà mình có lợi thế so sánh lớn nhất. Xét trên quan điểm địa lý trong thương mại quốc tế, lợi thế lớn nhất của Việt nam không phải là lao động rẻ, mà chính là vị trí quan trọng của nó trong việc duy trì ổn định và làm tăng hiệu quả của luồng vận tải thương mại qua Biển đông.

Như vậy, sự phối hợp có thể bắt đầu bằng việc tận dụng lợi thế tuyệt đối về vị trí địa lý nhằm khai thác nguồn tài nguyên biển. Không đơn giản chỉ là dầu khí hay hải sản. Như đã gợi ý, quan trọng hơn rất nhiều, đó là đường hàng hải chiến lược qua Biển đông, với hơn 1/3 giá trị thương mại toàn cầu đi qua đó. Tiềm năng phát triển  kinh tế  và vị thế địa lý chiến lược của Việt nam có thể tạo ra sự bổ trợ lẫn nhau, cho phép Việt nam tham dự ngày càng nhiều hơn vào việc khai thác nguồn tài nguyên khổng lồ và ngày một tăng này[6]. Việt nam có thể sử dụng không cảng và hải cảng chiến lược, như Cam ranh, làm kho dự trữ và nơi cung cấp hậu cần, neo đậu và sửa  chữa, bảo trì cho các tàu thuyền quốc tế đi qua tuyến hàng hải từ Biển đông sang Ấn độ dương và ngược lại. Các dịch vụ logistic đó cho phép tăng tính an toàn và hiệu quả, hay giảm chi phí và rủi ro trong vận chuyển trên không và trên biển. Vì vậy, nó làm tăng sự đóng góp của Việt nam vào giá trị thương mại của  đường vận chuyển quốc tế dọc theo Biển đông. Ở đây có sự ghép nối giữa lợi ích thương mại và bảo đảm an ninh đa phương, mà các bên liên quan đều hưởng lợi. Do đó, giá trị của sự phối hợp là rất lớn. Từ các điểm nút chiến lược ven biển, như Cam ranh, sự bùng nổ về giao dịch, vận chuyển quốc tế, sẽ cho phép các dòng vốn, công nghệ, và các phương thức tổ chức hiệu quả lan truyền vào Việt nam. (Điều mà đã diễn ra tại Singapore vào thập kỷ 1960 -70 ở Thế kỷ trước). Các nguồn lực này sẽ tạo nên sự tăng trưởng dựa trên đổi mới tổ chức và sáng tạo (hay vốn tri thức); kéo theo sự hoà nhập mạnh của Việt nam vào chuỗi thương mại toàn cầu, thông qua hợp tác TPP. Dẫu rằng TPP không xuất hiện vào ngày mai. Nhưng một tiến trình hợp tác như vậy có thể bắt đầu từ ngày hôm nay. Sự hợp tác đó có thể làm thay đổi các tính toán về  nước cờ địa chính trị của các nước lớn, theo hướng có lợi cho tiến trình hiện đại hóa Việt nam. Nói rõ hơn, việc khai thác lợi thế về thông thương và tăng cường giao dịch quốc tế chính là làm tăng giá trị kinh tế của chủ quyền và sức mạnh bảo vệ chủ quyền của Việt nam.         

5  Phụ lục: Phân tích các bước đi chiến lược

   Phần này giành cho việc trình bày một số mệnh đề, chứng minh cho các nhận định, lập luận đưa ra trong bài viết.

Mệnh đề 1:Trong các tranh chấp song phương, biểu diễn bởi Sơ đồ .1, nước nhỏ như Việt nam hoặc Philippines luôn chọn việc “không phản ứng” (hay các giải pháp tương tự), một khi bị nước lớn chèn ép về chủ quyền.

Chứng minh: Sau sự cố về việc Trung quốc vi phạm chủ quyền, được quy định bởi công ước quốc tế (UNCLOS), như vụ dàn khoan 981,  hay vi phạm thỏa thuận Trung quốc - ASEAN (DOC), như tôn tạo các bãi đá ngầm ở Trường sa. Việt nam  / Philippines sẽ  “Phản ứng”, nếu tin rằng Trung quốc sẽ giữ cam kết thực thi thỏa ước đã ký. Nếu vậy, thì trật tự hiện hành (status quo) trong khu vực được giữ nguyên. (Các bên nhận (0,0) điểm). Tuy nhiên, việc Trung quốc “tôn trọng thỏa ước” là không đáng tin cậy (This strategy is not credible). Lý do là Trung quốc sẽ vin vào các chứng cứ lịch sử, không được nêu lên trong thỏa ước hay công ước quốc tế rất khó kiểm chứng, để làm cái cớ “xác định lại” trật tự khu vực (holdup problem). Khi đó, việc nước nhỏ chọn “phản ứng” sẽ bị thiệt nặng trong tranh chấp song phương với Trung quốc. (Nước nhỏ thiệt 2 điểm, Trung quốc lợi 2 điểm). So với trường hợp “không phản ứng”, rõ ràng lựa chọn sau là tốt hơn. Vì nước nhỏ chỉ bị mất 1 điểm, do tránh được xung đột với nước lớn. Kết cục là Trung quốc sẽ chèn ép và nước nhỏ sẽ “không phản ứng”.  

Mệnh đề 2: Nếu tiến trình phối hợp Mỹ - Việt  đem lại kết cục thành công của TPP, thì hợp tác trong khu vực sẽ là xu thế dài hạn.

Chứng minh: Khả năng Việt nam xin gia nhập TPP được biểu diễn bởi Sơ đồ 16.2. Để đơn giản hóa phân tích, bài toán phối hợp Việt – Mỹ, sau khi Việt nam gia nhập TPP, bị làm ẩn. Thay vào đó, chỉ có kỳ vọng thành công trong việc phối hợp  Việt – Mỹ, được biểu diễn trong Sơ đồ 16.2. Cụ thể  là Mỹ sẽ được hưởng lợi 4 điểm, nếu Trung quốc “tôn trọng thỏa ước”; và vẫn được 1 điểm, nếu Mỹ “cam kết” bảo vệ tự do hàng hải, một khi Trung quốc muốn “xác định lại” trật tự khu vực trên Biển đông. Nhìn vào Sơ đồ 16.2, chúng ta thấy Mỹ có chiến lược trội là “cam kết” bảo vệ công ước quốc tế hiện hữu trên Biển đông, bất kể chiến lược của Trung quốc là gì. Vấn đề là, nếu hợp tác dài hạn trong quan hệ Việt – Mỹ (TPP) thành công, thì giữ “cam kết” là chiến lược duy nhất cho phép Mỹ luôn hưởng lợi. Nhưng nếu vậy, thì Việt nam ngay từ đầu sẽ chọn việc “gia nhập TPP”, hơn là  “không phản ứng” gì, khi bị Trung quốc chèn ép. (Trên thực tế, kỳ vọng này dẫn đến cuộc viếng thăm Mỹ của Tổng bí Thư Nguyễn phú Trọng, năm 2015, như đã nêu.)   Điều đó hàm ý rằng, ở Sơ đồ 16.2, Trung quốc sẽ tin rằng, cuộc chơi sẽ tiến đến điểm bên trái của đường gạch nét, khi Trung quốc đến lượt mình sẽ chọn “tôn trọng thỏa ước” hay “xác định lại” trật trự khu vực. So sánh được / mất, Trung quốc hiển nhiên sẽ chọn phương án hợp tác, hay “tôn trọn thỏa ước”, hơn là “xác định lại” trật tự, vì vấp phải “cam kết” của Mỹ và đồng minh trong việc bảo vệ công ước quốc tế, bao gồm luật biển UNCLOS. Việt nam hiển nhiên được lợi trong kết cục hợp tác này.

Mệnh đề 3: Nếu phối hợp Việt – Mỹ mang tính ngắn hạn và tiến trình hiện đại hóa của Việt nam bị chững lại hoặc bị làm cho đảo lộn, thì Trung quốc nhất định sẽ “xác định lại” trật tự khu vực.

Chứng minh: Hãy nhìn vào Sơ đồ 16.3: Bối cảnh bây giờ là sau khi TPP đã được ký kết. Sơ đồ 16.3 thể hiện rằng, về lâu  dài, sự “đối đầu” chủ yếu chỉ còn là giữa Mỹ và Trung quốc. Mặc dù vậy, tính tự chủ, độc lập, tự vươn lên của Việt nam lại được nhấn mạnh ở kịch bản này. (như sẽ nêu ở Mệnh đề kế tiếp).

Sơ đồ 3: Cuộc chơi giữa Mỹ và Trung quốc, sau khi Việt nam gia nhập TPP: kết cục tồi: M >> L

Nếu  TPP không phát huy được hiệu lực  trong ngắn hạn, thì nó làm thay đổi kỳ vọng được mất trong dài hạn về chiến lược của các cường quốc. Cụ thể là, Trung quốc có chiến lược trội (dominant strategy) là “xác định lại” trật tự trên Biển đông. Nhưng Mỹ lại được lợi ít hơn nhiều, và tổn phí cao hơn nhiều, trong việc giữ “cam kết”. Vì vậy, Mỹ sẽ chọn phương án “thỏa hiệp”. Nhưng nếu vậy, thì Việt nam sẽ chịu  rủi ro bị bỏ rơi (mất –K điểm).

Mệnh đề 4: Hợp tác dài hạn Việt – Mỹ (và các cường quốc khác trên Thế giới), nhằm đổi mới phương thức quản lý và từng bước hiện đại hóa nền kinh tế Việt nam, là điều kiện cần thiết để đạt kết cục hợp tác tại khu vực, bao gồm cả vấn đề Biển đông.

Chứng minh: Việc chứng minh mệnh đề này đòi hỏi chúng ta phải biểu diễn tường minh cuộc chơi phối hợp giữa Việt nam và Mỹ (hay với các cường quốc khác trên Thế giới), sau khi Việt nam đã gia nhập TPP. Hãy nhìn vào Sơ đồ .4.  

Sơ đồ 4: Phối hợp trong khuôn khổ TPP: X >> L.

  Sơ đồ 4 thể hiện tường minh cuộc chơi giữa Việt nam với Mỹ / Nhật, sau khi Việt nam “gia nhập TPP”. Nhánh ngoài cùng, bên phải, thể hiện kỳ vọng về kết cục tích cực của quan hệ hợp tác (Mệnh đề 2). Và nhánh trong cùng, bên trái, ứng với trường hợp TPP bị thất bại (Mệnh đề 3). Ngoài ra còn xuất hiện tình huống “mất cân bằng” (disequilibrium), hay ỉ lại, biểu diễn bởi nhánh ở giữa, khi Mỹ và đồng minh bỏ nỗ lực hay đầu tư cao vào phối hợp với Việt nam, nhưng Việt nam chỉ bỏ nỗ lực thấp trong việc thay đổi tổ chức quản lý theo hướng thuận lợi cho sự hợp tác và phát triển.

  Vấn đề là, để có kết cục hợp tác trong khuôn khổ TPP (Mệnh đề 2), các nền kinh tế phát triển, như Mỹ hoặc Nhật phải có “đầu tư cao” (big push), nhằm thúc đẩy việc đổi mới phương thức tổ chức và con người. Nhờ đó, nâng cao khả năng thu hút công nghệ và vốn (FDI) của Việt nam. Nhưng dĩ nhiên, điều này chỉ xẩy ra khi Việt nam có “nỗ lực cao” về đổi mới con người và bộ máy quản lý, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư nước ngoài. Trong ngắn hạn, sự thay đổi thể chế như vậy thường đòi hỏi một cam kết chính trị quá lớn, mà ít quốc gia đang phát triển nào thấy có thể thực hiện được. Vì vậy, Việt nam sẽ vin vào tính “đặc thù”; và chỉ thực hiện “nỗ lực thấp”. (Và được lợi 2, thay vì bỏ “nỗ lực cao”, chỉ được lợi 1). Nhưng nếu nhìn thấy trước rằng, Việt nam không sẵn sàng cho một chuyển biến về chất, thì ngay từ đầu, Mỹ (Nhật) sẽ chọn mức “đầu tư thấp” cả về lượng và về chất: Tức là vẫn chỉ tập trung vào khai thác lao động rẻ, kém kỹ năng, và thu lợi trước mắt.  Kết cục là sau khi gia nhập TPP, tầm nhìn của các bên đều mang tính ngắn hạn. Và hầu như không có gì thay đổi, so với trước TPP. Như đã nêu ở Mệnh đề 3, tầm nhìn ngắn hạn sẽ dẫn đến mất mát dài hạn cho mọi thành viên của TPP.

Bây giờ giả sử Mỹ / Nhật phân nhỏ tiến trình thúc đẩy đổi mới ở Việt nam (moving in small steps). Tức là, thay vì cuộc chơi một lần (one shot game), tương tác giữa các bên sẽ tiếp tục trong tương lai, một khi đã đạt được hợp tác ở thời điểm hiện tại (repeated game). Khi đó, khả năng cam kết đổi mới sẽ tăng lên. Cụ thể là, Việt nam sẽ thực hiện từng bước phối hợp với Mỹ (Nhật), nếu lợi ích dài hạn của sự đổi mới lớn hơn lợi ích trước mắt của việc duy trì phương thức tổ chức kém hiệu quả: . Ở đây, là hệ số khấu hao (discount rate).

Trên thực tế, điều này thể hiện bởi thỏa thuận giữa Việt nam và Nhật bản, cho phép tầu của Nhật cập cảng Cam ranh để tiếp nhận hậu cần, hoặc diễn tập phối hợp bảo đảm hàng hải. Những nhiệm vụ đó đòi hỏi phía Việt nam phải có sự đổi mới về năng lực, trình độ tổ chức, và kỹ năng hậu cần. Những bước phát triển sâu hơn trong quan hệ hợp tác giữa 2 nước trong lĩnh vực đảm bảo an ninh và ổn định trong khu vực sẽ được mở ra trong tương lai, một khi hợp tác ở thời điểm hiện tại đem lại thành quả cụ thể. Nhìn dưới ánh sáng đó, thì việc Mỹ cho tầu viếng thăm vô hại các bãi đá Trung quốc tôn tạo, hay cho máy bay B 52 bay vào Trường sa, nhưng không đi vào vùng 12 hải lý quanh các đảo nhân tạo của Trung quốc, là một chiến lược hợp lý. Và các bước đi đó sẽ tiếp tục được lặp lại trong tương lai.

Như vậy, hợp tác dài hạn Mỹ (Nhật) – Việt có thể được hiện thực hóa, ban đầu ở những nơi hay lĩnh vực, mà sự hợp tác đem lại thành quả thấy được; và các bên nghĩ nhiều hơn đến lợi ích của hợp tác trong tương lai, hơn là chỉ có mối lợi trước mắt (không quá nhỏ). Từng bước, quan hệ hợp tác dài hạn sẽ được nhân rộng dần. Cùng với nó là sự phát triển  về vốn người, năng lực chuyên môn và phương thức tổ chức – quản trị,  có lợi cho sự hợp tác dài hạn tại Việt nam. Theo Mệnh đề 2, triển vọng hợp tác dài hạn trong khu vực có thể trở thành hiện thực, thông qua TPP.

Mệnh đề 5: Để hợp tác quốc tế dài hạn mang tính khả thi, Việt nam cần có lộ trình nhằm từng bước nâng cao vốn người (human resource), năng lực chuyên môn và trình độ tổ chức – quản lý. Nhờ đó, làm tăng năng lực cạnh tranh và khả năng hòa nhập mạnh hơn vào giao thương quốc tế.

Chứng minh:Để dễ hình dung, chúng ta hãy tiếp tục ví dụ về hợp tác từng bước Mỹ (Nhật) – Việt, mà thành công ở bước hiện tại là cơ sở để tiếp tục hợp tác trong tương lai. Việc tiếp tế hậu cần cho tàu Nhật cập cảng Cam ranh, hay việc  Nhật trang bị tầu hải cảnh cho Việt nam, hay tập trận chung Việt – Nhật trong cứu hộ và đảm bảo hàng hải, là các bước đi cụ thể  trong quan hệ hợp tác. Nhưng đi kèm theo đó, là việc Nhật phải hỗ trợ Việt nam về huấn luyện kỹ năng làm việc, phương thức tổ chức làm việc, nhằm đảm bảo tính  hiệu quả của sự phối hợp.

Chúng ta ký hiệu năng lực của cá nhân hay tổ chức của Việt nam, sau khi đã nhận được sự đào tạo là . Tham số  thể hiện trình độ hiểu biết công nghệ hiện đại, hoặc khả năng sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ phức tạp, hay rộng hơn nữa là sự hiểu biết về cơ hội hoặc rủi ro đang đặt ra khi tham dự vào hợp tác quốc tế. Chúng ta giả sử rằng,  , ở đó,  là năng lực của cá nhân hay tổ chức đó, trước khi được đào tạo để tham gia phối hợp Mỹ (Nhật) – Việt. Nỗ lực và thành quả đạt được của tổ chức và cá nhân đó qua hợp tác quốc tế, được xem là cao hơn, so với khi không có sự hợp tác. Tức là,   và . (Chẳng hạn, việc hợp tác Nhật – Việt làm giảm chi phí cho việc sẵn sàng thực hiện tuần tra ở Biển đông của tàu Nhật, nhờ vào việc cập cảng Cam ranh để tiếp nhận hậu cần, thay vì phải vượt qua 2000 km đường biển không có trạm tiếp tế hậu cần). Vì vậy, giá trị của sự hợp tác hiển nhiên là lớn  hơn, khi không có hợp tác, . Viết gọn là: . Nhưng nỗ lực của phía Việt nam trong hợp tác cũng cao hơn là trường hợp không có hợp tác: .

Như vậy, rõ ràng là, cá nhân hay tổ chức có năng lực theo chuẩn mực quốc tế cao hơn, , thì nhận lãnh trách nhiệm lớn hơn, , và tạo ra giá trị cao hơn, . Vì vậy, cá nhân hay tổ chức đó của Việt nam cũng phải nhận được thu nhập lớn hơn, so với khi không tham gia vào hợp tác quốc tế: . Ở đó,  là thu nhập của cá nhân hay tổ chức trước và sau khi có đào tạo và tham dự vào hợp tác quốc tế. Như vậy, các mức thu nhập  tương ứng với trình độ kỹ năng .

Một điều kiện cơ bản để hợp tác quốc tế khả thi, là lợi ích ròng (thu nhập cao, sau khi bù cho nỗ lực làm việc cao) của cá nhân hay tổ chức tham gia hợp tác, ký hiệu là , ít ra cũng phải nhỉnh hơn mức độ thỏa dụng (utility),  khi không có hợp tác, ký hiệu là . Hay cũng vậy: . Nếu không có điều kiện này, thì không một cá nhân hay tổ chức nào của Việt nam muốn tham dự vào quan hệ hợp tác quốc tế.

Bây giờ, giả sử Việt nam không có một lộ trình rõ ràng, nhằm nâng cao nguồn vốn người. Nhờ đó,  làm tăng khả năng của cá nhân hay tổ chức Việt nam tham dự vào hợp tác quốc tế. Hay nói cách khác, sự phối hợp Mỹ (Nhật) – Việt chỉ mang tính biểu tượng, ngắn hạn. Khi đó, các cá nhân và tổ chức đã tham gia vào quan hệ hợp tác có tính thời vụ đó, nay sẽ trở về công việc hàng ngày, giống như trước khi có sự hợp tác quốc tế, với mức độ thỏa dụng , tương ứng với thang bậc hành chính trong bộ máy quản lý nhiều cấp ở Việt nam.

Cần nhấn mạnh rằng, mức thỏa dụng nội địa, , không hề thấp, nếu tính đến tất cả lợi ích có được (perk), khi một cá nhân nắm giữ một chức vụ trong bộ máy. (Sử dụng xe công đắt tiền, hưởng nhiều ưu đãi, bổng lộc theo vị trí công việc, vân vân).

Khi đó, cá nhân với năng lực cao, , ít có kích thích để bỏ ra nỗ lực cao, , nhằm kỳ vọng nhận được thu nhập cao,  , đủ bù lại cho họ mức thỏa dụng , cái mà họ vẫn nhận được ở vị trí của mình, khi chỉ cần bỏ nỗ lực thấp , tạo ra thành quả thấp, , giống như  một người chỉ có năng lực thấp, .  Cơ chế gắn mức thỏa dụng của cá nhân, tương ứng với vị trí của cá nhân đó trong bậc thang hành chính, do vậy, có xu hướng làm triệt tiêu động lực làm việc. Quan trọng hơn, các kỹ năng chuyên môn, hay khả năng đáp ứng các yêu cầu phức tạp được giao, hay những hiểu biết của cá nhân về các cơ hội hay rủi ro thị trường hay địa chính trị, cũng bị bỏ phí (cá nhân hay tổ chức với năng lực  chỉ làm việc như thể họ chỉ có năng lực ). Điều này lý giải tại sao có sức ỳ trước yêu cầu đổi mới về kỹ năng và phương thức tổ chức quản lý ở Việt nam. Nhưng nó cũng nói lên sự hạn chế về khả năng hòa nhập vào giao thương quốc tế của Việt nam, sau nhiều thập kỷ “đổi mới”. Việt nam chủ yếu vẫn dựa trên việc khai thác lao động rẻ và tài nguyên thô, tạo ra nấc giá trị thấp nhất, , trong chuỗi giá trị gia tăng của thương mại toàn cầu.

Như đã nêu ở Mệnh đề 4, “nỗ lực thấp”, , của cá nhân hay tổ chức Việt nam, dẫn đến việc  đầu tư thấp của Mỹ (Nhật) vào Việt nam. Các bên chỉ có tầm nhìn ngắn hạn trong quan hệ hợp tác, với cái giá là sự mất mát dài hạn cho tất cả các bên (Mệnh đề 3).

Nhìn thấy như vậy, thì việc hợp tác Mỹ (Nhật) – Việt phải được đặt trong một lộ trình phối hợp dài hạn, qua nhiều bước: từ việc nâng năng lực và trình độ tổ chức thấp ,  lên cấp cao hơn , như đã đề cập. Tiếp đó là  Ở đó, ; và  là năng lực cạnh tranh đẳng cấp quốc tế, như Singapore, Đài loan, Hong kong, hay Hàn quốc.

Như đã chỉ ra, điều này chỉ có thể đạt được trong sự hợp tác dài hạn của quan hệ Mỹ (Nhật) – Việt; cũng như với các cường quốc khác ở những nơi hoặc lĩnh vực, mà sự hợp tác dài hạn đem lại thành quả nhìn thấy được. Và các bên quan tâm đến thành quả trong tương lai, hơn là chỉ có mối lợi trước mắt.

Cuối cùng, cơ hội cho Việt nam ngày nay, cũng tương tự như cho Singapore vào đầu thập kỷ 1960. Lúc đó, Singapore mới chỉ là hải cảng, kho dự trữ, tiếp tế hậu cần cho Mỹ trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Việc tối ưu hóa chuỗi cung ứng và tiếp tế hậu cần, một cách đúng lúc ngay khi có yêu cầu (just in time), đã làm phát triển năng lực vận tải đường không và đường biển của Singapore. Điều đó cũng dẫn đến việc phát triển các ngành sản xuất linh phụ kiện tại chỗ cho việc tiếp tế hậu cần, sửa chữa bảo trì, với chi phí thấp, khi có một nhu cầu rất lớn của quân đội Mỹ. Việc phát triển công nghiệp vận tải hàng không và đường biển, cùng với phát triển sản xuất, gia công linh kiện phụ kiện, đã đưa Singapore hòa nhập vào chuỗi thương mại Toàn cầu, với sự đầu tư lớn của Mỹ (Nhật bản), ngay cả sau khi chiến tranh Việt nam kết thúc. Khi các luồng đầu tư và lợi nhuận khổng lồ sinh ra từ các dịch vụ logistic và công nghiệp lắp ráp, chế tạo, thì đó cũng là lúc biến Singapore thành trung tâm tài chính – thương mại vào loại lớn nhất ở Đông nam Á. Sự thần kỳ của Singapore thực ra là rất tự nhiên, một khi hiểu rõ  lộ trình nâng dần năng lực cạnh tranh của quốc đảo, từ  lên . Đó là thành quả của sự hợp tác dài hạn với Mỹ (Nhật), làm thay đổi cả về chất lượng và số lượng của vốn người (human resource) tại Singapore.

Ngày nay, Việt nam ở vào một vị trí địa lý quan trọng, nằm bên cạnh luồng hàng hải và hàng không qua Biển đông, mà giá trị  của chúng ngày càng tăng theo sự trỗi dậy của Châu Á. Không có sự thần kỳ nào cho Việt nam. Chỉ có tầm nhìn xa và một lộ trình hợp tác dài hạn với Mỹ, Nhật (và các đối tác quan trọng trong khu vực) sẽ giúp Việt Nam chấn hưng nền kinh tế.  



[1]According to Stephen D. Krasner, the term “souvereignty” could be understood in two main ways: (1) domestic sovereignty – actual control over a state exercised by an authority organized within this state. (2) international legal sovereignty – formal recognition by other sovereign states,

[2]Theo Viện nghiên cứu của Trung quốc, Unirule (2011)

[3]Hiện tại 80% dầu của Trung quốc vận chuyển qua con đường biển quốc tế này.  Khối lượng chuyên trở dầu sẽ tăng từ 10 triệu thùng (10 millions barrels) một ngày vào năm 2002 lên 20 triệu thùng một ngày vào năm 2020. 

[4]Điều này ngược với suy nghĩ của nhiều chính sách gia tại Việt nam cho rằng lợi thế lao động rẻ và suất thuế thấp đánh vào việc sử dụng tài nguyên, như đất đai, là cái thu hút FDI. Nếu không có sự tiến bộ về tổ chức và công nghệ, thì khả năng thu hút FDI  ngày càng có xu hướng chậm lại, khi tỷ lệ FDI/GDP ngày càng cao. 

[5]Trong Sơ đồ 2, cuộc chơi chèn ép song phương được viết gọn lại là kết cục Việt nam “không phản ứng”. Và bên cạnh đó, Việt nam có lựa chọn là gia nhập TPP.  

[6]Theo dự đoán của các chuyên gia và các tổ chức có uy tín, tới năm 2050,  Trung quốc và Ấn độ cộng lại có thể chiếm đến 50% GDP toàn cầu. Vì vậy, giá trị thông thương trên đường biển quốc tế qua Biển đông sẽ là vô cùng lớn trong tương lai.

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114530676

Hôm nay

2236

Hôm qua

2312

Tuần này

2845

Tháng này

217372

Tháng qua

0

Tất cả

114530676