[1]. Về văn bản chữ Hán và chữ quốc ngữ của Gia phả này, xin xem “Tiểu dẫn” trong Nhân đạo quyền hành, Đạm Trai văn tập, Nhà xuất bản Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2007, tr.431-432. Theo “Tiểu dẫn”, Hồ Phi Huyền là người đầu tiên bỏ công dịch Gia phả ra chữ quốc ngữ cho con cháu đọc, nhưng bản dịch này đã thất lạc từ năm 1955.
Bản dịch quốc ngữ in trong Phụ lục sách này do Hồ Phi Tường (1914-1964) – trưởng nam của Hồ Phi Huyền hoàn thành năm 1963. Tuy nhiên đây chỉ là bản lược dịch, nên toàn bộ Bản chi gia phả/phổ 本枝家谱chữ Hán chưa được giới thiệu trong lần xuất bản này.
Bản chi gia phả/phổ chữ Hán hiện do gia đình lưu giữ, gồm 130 trang sổ nhỏ giấy bản. Bên phải tiêu đề là dòng ghi năm tháng: ‘Hoàng Nguyễn Duy Tân tam niên tuế Kỷ dậu thập nhị nguyệt sóc hậu’ (Sau ngày mồng 10 tháng 12 năm Kỷ dậu, triều Nguyễn niên hiệu Duy Tân năm thứ 3, 1909). Bên trái ghi: ‘Thập tứ thế tôn cử nhân Huyền phụng biên’, nghĩa là: Cử nhân Hồ Phi Huyền, cháu 14 đời, phụng biên. Trang cuối cùng của chính văn của tộc phả này ghi: ‘Hoàng Nguyễn Bảo Đại ngũ niên tuế tại Canh ngọ bát nguyệt thập tam nhật. Trưởng tử Huyền phụng chí’ (Ngày 13 tháng 8 năm Canh ngọ, triều Nguyễn niên hiệu Bảo Đại năm thứ 5, 1931. Trưởng nam Hồ Phi Huyền phụng ghi).
Như vậy đây đúng là một thủ bút Hán văn của Hồ Phi Huyền. Ông đã làm công việc hướng về cội rễ gia tộc bằng việc sao chép lại Gia phả dòng họ Hồ do nhiều đời con cháu thực hiện để lại, và chính ông nối bút từ đời thứ X đến XIII (Hồ Phi Huyền thuộc đời thứ XIV). Bản gia phả lần lượt gồm:
- “Cùng đạt Gia huấn” (do Thượng thư Quỳnh Quận công tự thuật), dài gần 40 trang, viết năm Long Đức thứ hai (tức 1733); trong đó ghi lại cả một số thơ ca ngự chế, câu đối của con cháu họ Hồ dâng vua và thù tạc với bạn hữu.
- Bài ký tại Từ đường phu nhân (họ Chân, trắc thất của Quỳnh Quận công, do Hồ Sĩ Tuấn và Văn Đức Giai viết năm 1852)
- “Gia phả bạt” (do Giốc Quận công Hồ Sĩ Đồng – đời thứ 11 - viết năm 1783
- “Gia phả tự” (do Hồ Phi Hội – đời thứ 12 - viết năm 1852)
- Thế thứ (viết năm 1852)
Về dòng họ Hồ Quỳnh Đôi, tại Thư viện Viện Văn học có lưu bản chữ Hán 琼堆村胡族科名(Quỳnh Đôi thôn Hồ tộc khoa danh – Gia phả khoa bảng họ Hồ thôn Quỳnh Đôi), ký hiệu HN 253. Sách do Tú tài Hồ Phi Hội - đời thứ 12 - chép tay trên giấy dó, gồm 55 tờ.
[6].Gồm: 1. Bài phú về chiếc quạt lông trắng (Bạch vũ phiến phú) 2. Phú hòn Vọng Phu (Vọng phu thạch phú) 3. Lời tựa tập Ngâm thiền tạp hưởng (Ngâm thiền tạp hưởng tập tự)
4. Thơ ngẫu thành trong lúc ốm (Bệnh trung ngẫu cảm thi)
5. Thơ gửi em rể Nguyễn Thức Độ (Ký muội phu Nguyễn Thức Độ thi)
6. Luận về nghĩa và lợi (Nghĩa lợi luận)
7. Luận về sự ương gàn của Vương Lăng (Vương Lăng tráng luận)
8. Luận về sự ham chuộng cái cổ (Hiếu cổ luận)
9. Mừng phó bảng Nguyễn Thúc Hiên (Hạ phó bảng Nguyễn Thúc Hiên văn)
10. Tờ khải cảm tạ án sát tỉnh Hải Dương Từ Đạm (Tạ Hải Dương tỉnh án sát Từ Đạm khải) 11. Mừng em rể Phan Duy Huệ đậu cử nhân (Hạ muội phu cử nhân Phan Duy Huệ)
12. Bài ca về các dòng sông ở Bắc Kỳ (Bắc Kỳ hà lưu ca)
13. Không có đầu đề
14. Luận về con cự hư cõng con quệ (Cự hư phụ quệ luận)
15. Ngẫu nhiên làm hai câu đối (Ngẫu thành đối liên)
16. Thay mặt môn sinh mừng thọ thầy (Đại môn sinh hạ tiên sinh thọ văn)
17. Luận về trường nữ học (Nữ học trường luận)
18. Luận về vấn đề mười việc trong thiên hạ tám có chín việc chẳng như ý
(Thiên hạ sự thập thường bát cửu bất như ý luận) 19. Luận về cây cam đường của Thiệu Bá (Thiệu Bá đường luận)
20. Họa thơ Nguyễn Đỉnh Ngọc (Mộng Quế) nguyên giáo thụ xã Bình Lăng huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên (Họa Hưng Yên tỉnh Ân Thi huyện Bình Lăng xã nguyên giáo thụ Nguyễn Đỉnh Ngọc (Mộng Quế)
* Phụ chép bài nguyên vận của Nguyễn Đỉnh Ngọc
21. Ngẫu nhiên làm câu đối (Ngẫu thành đối liên)
22. Ghi chép về việc mở rộng chợ Nhuế (Phụ lục tăng quảng Nhuế thị ký)
23. Thư trả lời con rể Đặng Thai Mai hỏi về quan niệm luân lý Âu Á giống khác nhau thế nào và có thể thỏa hiệp hay không (Thư đáp tế tử Đặng Thai Mai Âu Á luân lý quan niệm đồng dị như hà cập năng phủ thỏa hiệp chi vấn)
24. Thơ ngẫu thành (Ngẫu thành thi)
25. Thư trả lời con rể Đặng Thai Mai hỏi về triết học hiện đại và Dịch học
(Thư đáp tế tử Đặng Thai Mai hiện đại triết học cập Dịch học chi vấn)