Những góc nhìn Văn hoá

Ký hiệu học văn hóa ở trường phái ký hiệu học Tartu - Moskva

Những ghi chú được trình bày ở đây không nhằm mục đích thuật lại hay phân tích nội dung các công trình về ký hiệu học và loại hình văn hoá làm thành tập trước[1] và tập này trong tuyển tập tác phẩm của Iu.M.Lotman (Iu.M.), mà nhằm tổng kết sơ bộ những tri thức cơ bản, tối thiểu, cần phải có để hiểu được những tác phẩm ấy. Vấn đề là ở chỗ, Iu.M. cương quyết không viết kiểu bài tổng quan ít nhiều mang tính hệ thống về nền tảng tri thức ký hiệu học (ông cũng từ chối viết một cuốn giáo trình có hệ thống về lý luận văn học theo kiểu như thế), vì ông cho rằng nhiệm vụ của mình là sáng tạo ra cái mới, chứ không phải là trình bày lại cái cũ, hay thậm chí, kết nối những kết quả đã cũ với những kết quả còn mới vào một chỉnh thể khái quát độc nhất. Iu.M. cho rằng, có hai loại học giả: loại thứ nhất là những người đặt vấn đề, còn loại thứ hai là những người giải quyết các vấn đề ấy. Ông nói thêm: đặt vấn đề chính xác thường khó hơn, phải chịu trách nhiệm lớn hơn so với việc tìm ra lời giải đáp chính xác. Ông tự xếp mình vào loại học giả thứ nhất. Vì vậy, ông không thích công việc phân loại dựa trên sự tổ hợp đơn giản, - ông xem đó là công việc hời hợt, nhất thời. Tất cả những công trình về ký hiệu học của ông đều dành vào việc tiếp tục phát triển lý thuyết ký hiệu học văn hoá, hoặc phân tích những tư liệu văn hoá cụ thể từ giác độ ký hiệu học. Về các vấn đề lý thuyết liên quan tới nền móng ký hiệu học, hoặc phương pháp luận phân tích ký hiệu học, Iu.M. chỉ dừng lại ở mức độ vừa đủ theo yêu cầu của nhiệm vụ phân tích cụ thể, bởi nếu không làm thế, quan điểm của ông sẽ mâu thuẫn với quan điểm ở các công trình của những bậc tiên khu. Tất nhiên không phải bao giờ cũng như thế, - chúng ta không thấy trong các công trình của Iu.M. những ý kiến tranh luận với R.O.Jakobson, mọi trích dẫn rút từ công trình của Jakobson đều thấm đẫm sự đồng tình, nhưng Iu.M. hoàn toàn không tán thành Jakobson về hàng loạt vấn đề có tính nguyên tắc trong việc nghiên cứu ký hiệu học: chủ trương lấy ngôn ngữ làm trung tâm của Jakobson đối lập với luận điểm về nguyên tắc đa nguyên của các mã văn hoá, sơ đồ giao tiếp đơn giản hoá của Jalobson xung đột với việc sáng tạo ra các mô hình giao tiếp khác nhau của Iu.M. v.v…

Dĩ nhiên, nhiều khi tất cả những điều trên đều gắn với bối cảnh của thời đại: trong lúc bản thân các khuynh hướng khoa học thường bị nhiều cấu trúc quyền lực khác nhau tấn công từ mọi hướng, Iu.M.cho rằng, tranh luận trong nội bộ một khuynh hướng không nên dẫn nhau tới chốn pháp đình của một thứ cử toạ ít hiểu biết và nhiều khi rất thiếu thiện chí. Dĩ nhiên, sự việc không chỉ nằm ở bối cảnh bên ngoài như vậy. Với Iu.M., ký hiệu học là bộ môn khoa học thực nghiệm, và việc phân tích chất liệu thực tế từ góc độ ký hiệu học bao giờ cũng quan trọng hơn, có ý nghĩa lớn hơn nhiều so với việc sáng tạo ra những thứ siêu lý thuyết tinh vi hay tham gia vào những cuộc tranh luận sắc sảo. Những gì dính dáng tới tranh luận, Iu.M. xem chỉ là chuyện mất thì giờ vô ích: mọi cuộc tranh luận cuồng nhiệt thường chỉ nói được những điều vặt vãnh, màu mè, chứ không thể nêu ra các luận điểm quan trọng, trong khi đó, ký hiệu học là khoa học non trẻ tới mức, vẫn còn quá sớm để quan tâm tới việc gọt đẽo các chi tiết[2].

Nếu những công trình ký hiệu học đầu tiên đã được công bố thường đầy ắp lời bình luận về lý thuyết và phương pháp luận, thì từ cuối những năm 1960, Iu.M. từ bỏ phần lớn hệ thống thuật ngữ chuyên ngành và sự nghiêm nhặt phương pháp luận. Có thể dẫn một bài báo dài, có ý nghĩa rất quan trọng, công bố vào năm 1968 làm ví dụ cho phong cách mới này: Về siêu ngữ miêu tả văn hoá từ giác độ loại hình[3], - sự đơn giản hoá cách thức trình bày chẳng những không dẫn tới sự đơn giản hoá nội dung, hoặc làm mất đi tính nghiêm nhặt, mà còn có tác dụng khoa học cụ thể, làm tăng thêm tính rõ ràng của công trình nghiên cứu, chẳng những thế, có thể khẳng định, từ góc độ phát triển lý thuyết ký hiệu học, chính những công trình tập trung phân tích chất liệu cụ thể bao giờ cũng có giá trị lớn hơn rất nhiều.

Tuy nhiên, việc Iu.M. có thể trình bày dễ dàng những vấn đề phức tạp nhất của ký hiệu học văn hoá, bản thân cách nghĩ và phong cách trình bày phớt lờ chi tiết và thay thế sự lập luận lý thuyết cặn kẽ bằng những ví dụ biểu cảm[4],- tất cả những cái đó tạo nên ấn tượng sai lầm về sự non kém của nền tảng lý thuyết, thậm chí nhiều người còn cho rằng quan điểm ký hiệu học của ông mang tính chiết trung.

Ở đây, chúng tôi không thể dựng lại đầy đủ bức tranh lý luận ký hiệu học của Trường phái Tartu, vả lại, cũng không cần thiết phải làm như thế. Chỉ cần phác hoạ những đường nét cơ bản nhất của nó, dựng lại hình dáng quan trọng nhất, bổ sung thêm những tri thức tối thiểu cần cho sự tìm hiểu các công trình của Iu.M. về ký hiệu học và loại hình văn hoá.

 

Ký hiệu học. Vấn đề ký hiệu

Ký hiệu học (Σημειωτικη[5]) là khoa học về ký hiệu và các hệ thống ký hiệu. Định nghĩa giản dị ấy chứa đựng trong bản thân hàng loạt vấn đề chẳng hề đơn giản chút nào: thậm chí, ngay cả những vấn đề thoạt nhìn có vẻ như mọi chuyện đều đã rõ, ví như “ký hiệu là gì?”, hoặc vì sao một khách thể như ký hiệu lại có thể trở thành đối tượng nghiên cứu khoa học?” - cho đến nay vẫn tồn tại nhiều bất đồng nghiêm trọng giữa các nhà nghiên cứu. Vấn đề nằm ở chỗ: từ trong bản chất của mình, ký hiệu là mộ đối tượng nghịch lý. Đối tượng “thông thường” do các khoa học “bình thường” nghiên cứu bao giờ cũng có một thuộc tính cơ bản để trên thực tế, việc nghiên cứu có thể tiến hành: tính tự đồng nhất, sự đồng nhất với chính bản thân mình: A = A. Nếu điều kiện này bị xoá bỏ, thì không chỉ bất kỳ sự nghiên cứu nào, mà ngay cả mọi hình thái nhận biết nói chung đều không thể có được, chí ít là với ý nghĩa mà truyền thống khoa học hàn lâm châu Âu vẫn trao cho nó. A = A không chỉ là nền móng của bản thể luận, mà còn là nền móng của nhận thức luận: luật đồng nhất là luật đầu tiên và cơ bản của lô gíc học hình thức (châu Âu)[6].

Trong thế giới của các ký hiệu, mọi chuyện diễn ra rất khác: nhìn chung, ký hiệu không thể đồng nhất trực tiếp với bản thân nó, vì sự đồng nhất như thế sẽ xoá bỏ ngay thuộc tính cơ bản của nó, ấy là tính ký hiệu[7]. Sự đồng nhất của ký hiệu thực hiện thông qua một ký hiệu khác được gọi là ý nghĩa của ký hiệu ấy. Đặc điểm của sự đồng nhất này có thể rất khác nhau, một trong số những người đặt nền móng cho ký hiệu học hiện đại - Charles SandersPeirce, đã chia nó thành ba loại hình cơ bản[8].

Loại thứ nhất gồm những ký hiệu hình tượng[9], hay là các hình tượng (icons). Nền tảng của tính hình tượng là quan hệ tương đồng giữa ký hiệu và đối tượng được nó biểu đạt (chẳng hạn, bức chân dung mô tả một con người cụ thể). Loại thứ hai đồng nhất ký hiệu với đối tượng được nó biểu đạt tạo thành các ký hiệu dấu chỉ[10], hay các dấu chỉ (indexes). Nền tảng của tính dấu chỉ là mối liên hệ thực tế trong không gian hoặc thời gian giữa ký hiệu với đối tượng được nó biểu đạt (ví như biển chỉ đường, khói là dấu hiệu của lửa v.v…). Loại đồng nhất thứ ba gồm những ký hiệu biểu tượng[11], hay các biểu tượng (symbols), nền tảng của chúng là mối liên hệ võ đoán, thuần tuý mang tính quy ước giữa ký hiệu và đối tượng của nó. Nó có thể là sự thoả thuận, là truyền thống, hay thậm chí chỉ là sự trùng hợp đơn giản (thường người ta vẫn dẫn các từ của ngôn ngữ tự nhiên để làm ví dụ cho các tượng trưng). Cần nhấn mạnh rằng, ngay cả trong trường hợp các ký hiệu biểu tượng, sự tương đồng hoàn toàn không dẫn tới sự đồng nhất ký hiệu với ý nghĩa của nó; ký hiệu bao giờ cũng là một đối tượng thuộc loại khác.

Tuy nhiên, các loại hình ký hiệu dẫu cụ thể thế nào, thì tính ký hiệu vẫn xoá bỏ nền tảng của sự tự đồng nhất: ký hiệu không thể đồng nhất với bản thân, không thể đồng nhất với đối tượng được nó biểu nghĩa; ký hiệu đồng nhất nhờ sự hỗ trợ của ý nghĩa của nó, tức là nhờ sự hỗ trợ của cái đối tượng không thể đồng nhất với nó. Không có ý nghĩa, không có ký hiệu; không có ký hiệu, không có ý nghĩa; chẳng những thế, ký hiệu và ý nghĩa của nó cũng không thể đồng nhất; đó là những hiện tượng thuộc loại hoàn toàn khác nhau. Cho nên, trong thế giới ký hiệu, luật đồng nhất không phát huy tác dụng; tính chất nghịch lý nội tại nằm ngay trong nền móng của ký hiệu học: A?A. Tính chất tự đồng nhất của ký hiệu bị xoá bỏ bởi tính đa bội tiềm tàng và tính đa nghĩa của nó: không chỉ mỗi chữ “táo”, mà, ví như, cả chữ “apple”, hay hình ảnh của nó đều có thể trở thành ký hiệu của quả táo.

*

Nghịch lý có tính nguyên tắc ở khu vực ký hiệu học không đơn giản chỉ giống như một thuộc tính nực cười. Hoàn toàn có thể nói, chính mâu thuẫn nội tại của các ký hiệu là cơ sở của hiện tượng dối trá: thế giới ngoài ký hiệu và tiền ký hiệu không có sự dối trá; sự dối trá đã thâm nhập vào thế giới cùng với ngôn ngữ; sự dối trá sáng tạo ra các ký hiệu. Như Rousseau, và người ta đồn rằng trước Rousseau, còn cóÉsope, từng khẳng định, ngôn ngữ được tạo ra chính là để lừa dối. Quả như chúng ta thấy, cuộc đấu tranh chống lại sự giả dối kéo dài hàng trăm năm đúng là đã trở thành cuộc đấu tranh với chính ngôn ngữ, với bản chất ký hiệu của nó. Nhưng về nguyên tắc, cuộc đấu tranh này hoàn toàn vô vọng, vì đấu tranh chống lại các ký hiệu buộc phải nhờ tới sự trợ giúp của các ký hiệu như thế[12].

Ở đây có hai điều cần lưu ý. Thứ nhất: ký hiệu chứa đựng trong bản thân cả khả năng giả dối, lẫn khả năng chân lý; bên ngoài ký hiệu, chẳng những không có “dối trá”, mà “sự thật” cũng không có.Thứ hai: về nguyên tắc, thiếu ký hiệu, không thể nhận thức: chia tách, đánh dấu đối tượng nghiên cứu, mô tả, định hình các kết quả nhận được, thông báo về chúng - tất cả những điều ấy không đơn giản chỉ là những quá trình trong đó các ký hiệu được vận hành theo một cách nào đấy, mà chủ yếu là những quá trình ký hiệu hoá. Bởi vậy, tính nghịch lý ký hiệu học hoàn toàn là đặc tính cố hữu của bản thân quá trình nhận thức: tiền đề của nó là sự đồng nhất đối tượng với bản thân nó (A=A), nhưng nội dung thì lại là sự đánh tráo nó bằng một cái gì khác (A=B) hoàn toàn không giống nó (A?B), mà lại có chức năng làm ký hiệu của đối tượng ấy; thao tác tiếp theo với cái khác kia là, bằng sự đánh tráo ngược lại, chuyển kết quả thu được từ quá trình thao tác ấy vào địa chỉ của đối tượng nghiên cứu[13].

Tất cả những điều trên đã được G. Frege[14]nhận ra rất rõ. Ông từng khẳng định mọi nền móng của toán học thoạt tiên là ở lô gíc học, rồi sau đó, ông đi tới kết luận, với mục đích biện giải của toán học, so với các quan hệ lô gíc, có những đối tượng có ý nghĩa căn cốt hơn nhiều, ấy là các ký hiệu. G. Fregemở đầu công trình đã thành cổ điển của mình Về nghĩa và ý nghĩa (1892) bằng những bàn luận về đẳng thức. Theo G.Frege, đẳng thức không phải là quan hệ giữa các đối tượng, mà là quan hệ “giữa các tên gọi, hoặc các ký hiệu của các đối tượng”[15]. Đây là cách biện giải của ông về luận điểm này: “Cơ sở để người ta nói như thế thực chất là như sau: mệnh đề a = a và a = b rõ ràng có những giá trị nhận thức khác nhau: mệnh đề a = a chứng tỏ a priori… Trong khi đó, những mệnh đề có định thức a = b lại mở rộng đáng kể nhận thức của chúng ta, và chúng không phải bao giờ cũng có thể được biện minh bằng a priori. <…> Nếu chúng ta muốn nhìn thấy trong đẳng thức  tương quan giữa cái được biểu đạt bằng các tên gọi “a” và “b”, thì mệnh đề a = a và a = b rõ ràng không thể có sự khác nhau, nếu a = b là đúng. Đồng thời, quan hệ giữa vật với chính bản thân nó, chứ không phải với bất kỳ một vật nào khác, đã được biểu đạt. Nhưng khi nói a = b, rõ ràng người ta muốn nói rằng, các ký hiệu, hoặc các tên gọi “a” và “b” biểu đạt cùng một thứ, và như thế, điều được nói ở đây chính là về các ký hiệu”[16].

Xin minh hoạ cho điều đã nói bằng chính các ví dụ của Frege. Chúng ta cùng phân tích các phát ngôn sau:

  1.  Venhera là Venhera
  2.  Ngôi sao chiều là ngôi sao chiều
  3.  Ngôi sao chiều là Venhera

Phát ngôn (1) và (2) là những phát ngôn phân tích, chúng hoàn toàn đúng đắn mà không cần lệ thuộc vào cái được biểu nghĩa bằng các từ ngữ “Venhera” hay “Ngôi sao chiều”; trong khi đó, phát ngôn (3) là phát ngôn tổng hợp, nó chỉ đúng khi “Ngôi sao chiều” và “Venhera” là những ký hiệu khác nhau của một loại tinh tú. Rõ ràng là, khác với (3); (1) và (2) không chứa đựng tri thức mới. Bởi vậy, câu chuyện của Frege không đơn giản chỉ là nói về bản chất của đẳng thức, hay những vấn đề phổ quát nào đó như các nền móng của toán học, bản chất của ý nghĩa, mà nói về cơ sở ký hiệu học của tri thức nói chung.

*

Khi bàn về các nền móng ký hiệu học của tri thức, cần tính đến một thực tế hiển nhiên, ký hiệu học không nghiên cứu toàn bộ sự đa dạng của hiện thực, mà chỉ nghiên cứu các mô hình ký hiệu mang tính ước lệ cao độ và được đơn giản hoá mạnh mẽ của nó. Chính ở đó, sự đơn giản hoá cao độ của ký hiệu học là tiền đề tạo nên tính hiệu quả của nó, bởi vì, nó cho phép miêu tả các hệ thống và các quá trình phức tạp một cách rõ ràng và đơn giản. Mô hình ký hiệu nào cũng đều là sự nhận thức lĩnh vực đối tượng của nó, mà ý nghĩa thì không chỉ trở nên dễ hiểu hơn, mà còn đơn giản hơn điều vô nghĩa.

Còn một bình diện nữa cũng gắn với điều trên: trong miêu tả ký hiệu học, không có sự khác biệt về nguyên tắc giữa các mối liên hệ và các ý nghĩa hữu thức với vô thức. Ký hiệu học cho phép “vượt ra ngoài giới hạn của cặp đối lập lĩnh hội và tri nhận cảm tính”, bởi vì “các ký hiệu được diễn giải qua ký hiệu”[17], bằng cách ấy, ký hiệu học cho phép “gỡ bỏ” cặp đối lập giữa ý thức và vô thức. Theo C.Lévi-Strauss, tất cả những điều đó là tiền đề tạo nên hiệu suất đặc biệt của phương pháp ký hiệu học, trước hết là ở lĩnh vực khoa học nhân văn. Chỗ mà khoa dân tộc học truyền thống có kỳ vọng làm sáng tỏ, ví như thực tiễn lễ nghi này kia liệu có dựa trên cơ sở của các mô hình ý thức, tiềm thức (ở cấp độ cá nhân - theo ý nghĩa của S. Freud), hoặc vô thức (theo ý nghĩa vô thức tập thể của C.G. Jung) hay không, thì nhân loại học cấu trúc chỉ miêu tả các biểu tượng, các cấu trúc và hiệu quả tác động của chúng[18]. Đối tượng của ký hiệu học là ý nghĩa được biểu đạt

Ký hiệu học nghiên cứu các ký hiệu. Nhưng không phải tất cả những gì gắn với ký hiệu đều là đối tượng của ký hiệu học. Ký hiệu học tập trung nghiên cứu cơ cấu, ý nghĩahoạt động của các ký hiệu (các bình diện tương ứng của khoa học về các ký hiệu được gọi là cú pháp học, ngữ nghĩa họcdụng học), chứ không nghiên cứu, ví như, các mối liên hệ nhân quả giữa các đối tượng, các ký hiệu khác nhau, hoặc, ngay cả các ký hiệu và các đối tượng.  Khi nghiên cứu các ký hiệu, nhà ký hiệu học không quan tâm tới những vấn đề thuộc loại như tại sao, mà quan tâm đặc biệt tới vấn đề cái gìthế nào. Chẳng hạn, nếu mèo đen có nghĩa là rủi ro, thì nhà ký hiệu học chỉ ghi nhận mối liên hệ ấy và hy vọng giải thích được đặc điểm của nó, còn việc tìm hiểu nguyên nhân vì sao mèo đen có khả năng mang lại rủi ro, thì cái đó thuộc về thầm quyền của các nhà động vật học, nhân chủng học, tâm lý học.

Văn hóa và ký hiệu học. Ký hiệu học văn hóa

Đối tượng nghiên cứu của trường khái ký hiệu học Tartu-Moskva (TMS)  chủ yếu là ký hiệu học văn hoá. Công thức này có thể nhấn mạnh, với TMS, văn hoá không phải là đối duy nhất, nhưng là đối tượng nghiên cứu đặc biệt; bởi có vô số những công trình được công bố trên các xuất bản phẩm ký hiệu học giai đoạn 1964-1992 chẳng có quan hệ trực tiếp với ký hiệu học văn hoá, rõ ràng nằm ở khu vực ngoại vi của những ấn phẩm ấy, đôi khi nhìn vào tựa như một cơ thể khác loài. Về phương diện này, có lẽ tiêu biểu nhất là những công trình nghiên cứu của TMS trong lĩnh vực ký hiệu học ngôn ngữ (có một số lượng lớn những người tham gia vào TMS là các nhà ngôn ngữ học chuyên ngành) - hầu hết những công trình ấy đều không nghiên cứu các phương diện riêng lẻ nào đấy hoặc các phạm trù cấu trúc ngôn ngữ và thâm chí, không phải toàn bộ hệ thống ngôn ngữ nhìn từ nội tại, mà là hoạt động của nó trong ngữ cảnh chung của văn hoá.

Trong các công trình nghiên cứu ký hiệu học vẫn tồn tại hai hướng phân tích văn hoá cơ bản. Hướng thứ nhất gắn với truyền thống của C.Peircevà những công trình của các môn đệ của ông, chủ yếu là cánh Bắc Mỹ. Hướng thứ hai, trước hết,  hướng tiêu biểu của những nhà nghiên cứu châu Âu, gắn với việc phát triển các tư tưởng của F de Saussure. Nằm trong dòng chảy của hướng thứ hai này, việc nghiên cứu trong lĩnh vực ký hiệu học văn hoá được thực hiện trong phạm vi TMS có đặc điểm là tách xa với các truyền thống của C.Peircevà chủ yếu gắn với tuyến phát triển của F. de Saussure. Tuy nhiên, trong hàng loạt tương quan cơ bản, quan điểm của TMS tỏ ra khác xa với quan điểm của Saussure.

Nhưng trước khi tìm hiểu bản chất của sự khác nhau nói trên, cần dừng lại  để phân tích, đối sánh, dẫu chỉ đại quát và sơ lược, ký hiệu học của Peircevà ký hiệu học của Saussure (như người Thuỵ Sỹ vĩ đại này gọi khoa học về các hệ thống ký hiệu). Với chúng ta, điều quan trọng không hẳn là sự khác biệt ở vô khối vấn đề riêng lẻ, ngay cả những khác biệt có tính nguyên tắc, mà chủ yếu là định hướng chung của các quan điểm tiếp cận [19].

Với Peirce, ký hiệu là khái niệm giữ vai trò trung tâm. Trong ký hiệu học của ông, nó là đơn vị khởi điểm và có ý nghĩa nền tảng. Ký hiệu là một đối tượng bất kỳ nào đó thay thế cho một đối tượng bất kỳ nào khác[20]. Ký hiệu không thể phân rã thành các thành phần nhỏ hơn, mang tính thiết yếu từ giác độ ký hiệu học. Những ký hiệu riêng lẻ giản đơn có thể tạo thành các tổ hợp ký hiệu phức tạp hơn, thành các phát ngôn mà tổng thể của nó sẽ tạo thành ngôn ngữ. Khi N.Chomsky định nghĩa ngôn ngữ là vô số những câu đúng ngữ pháp, dù không trích dẫn Peirce, thì ông cũng xuất phát từ quan niệm về mối tương quan giữa từ (ký hiệu), phát ngôn và ngôn ngữ: trong tương quan với ký hiệu, phát ngôn và ngôn ngữ  hoạt động với tư cách là những tổ chức phái sinh và phức tạp hơn nhiều. Chẳng có gì ngạc nhiên khi với Peirce, ký hiệu là thành tố quan trọng hơn rất nhiều so với ngôn ngữ: việc miêu tả chính xác các ký hiệu và quy tắc cú pháp của chúng sẽ tự động đảm bảo cho việc miêu tả ngôn ngữ đúng đắn. Có thể gọi quan điểm như thế là quan điểm nguyên tử luận.

Lô gíc của Saussure hoàn toàn khác. Trái ngược với Peirce, ông cho rằng, hoàn toàn không thể tồn tại một ký hiệu biệt lập. Theo quan điểm của ông, phải thừa nhận toàn bộ sơ đồ ký hiệu học của Peirce là không chính xác. Với Saussure, ký hiệu không xác lập quan hệ với đối tượng được nó thay thế, mà xác lập quan hệ với các ký hiệu khác cùng tham gia vào hệ thống ký hiệu đó (tức là ngôn ngữ). Bởi vậy, tiền đề tồn tại của một ký hiệu là các ký hiệu khác. Không phải ký hiệu (giống với Peirce), mà ngôn ngữ mới là thực tế ký hiệu học khởi điểm, là chỉnh thể nguyên sơ, còn những ký hiệu riêng lẻ chẳng qua chỉ là ký hiệu phái sinh từ cấu trúc của ngôn ngữ[21].  Nên nhớ, bản thân khái niệm ký hiệu đã được Peirce và Saussure diễn giải theo những cách hoàn toàn khác nhau: với Peirce, ký hiệu là một đối tượng cụ thể biểu thị một đối tượng khác, với Saussure, ký hiệu là một đối tượng trừu tượng được biểu thị trong chất liệu âm thanh (trong lời nói); ký hiệu của Peirce là cái tối thiểu, sơ giản, ký hiệu của Saussure là tổ hợp: một khối thống nhất không thể chia cắt của cái được biểu nghĩa và cái biểu nghĩa.

Tóm lại, với ký hiệu học nguyên tử của Peirce thì khởi điểm là các ký hiệu, được hiểu như là các đơn vị sơ thiểu ký hiệu học, với Saussure, xuất phát điểm là hệ thống ký hiệu trong sự thống nhất và tính chỉnh thể của nó. Hướng tiếp cận các hiện tượng ký hiệu học như thế có thể gọi là hướng chỉnh thể [22] (tiếng Nga:“холизм”, gốc Hy Lạp: “holos”, tiếng Anh: “holism”.-ND).

Chỉnh thể cũng là quan điểm của TMS, nhưng, như chúng tôi sẽ chỉ ra ở phần dưới đây, quan điểm chỉnh thể này có một số điểm khác biệt so với Saussure. Những người thừa kế “trực tiếp” của Saussure - các nhà cấu trúc luận và hậu cấu trúc luận Pháp - dù có hàng loạt sáng tạo xuất sắc, vẫn không thể tạo ra một nền ký hiệu học văn hoá toàn vẹn, chính các nhà nghiên cứu tham gia vào TMS đã hoàn thành công việc ấy[23]. Có một truyền thống ký hiệu học văn hoá khác cũng rất có uy tín, gọi một cách ước lệ, thì đó là truyền thống Peirce (ở đây trước hết cần phải kể ra các công trình của C.W.Morris, T.A.Sebeok,M.Danesi, J.Dili…).

Theo quan điểm truyền thống của Peirce, ký hiệu học văn hoá được xem là một phần của ký hiệu học, nghiên cứu các tổ chức ký hiệu thường gặp trong những nền văn hoá khác nhau, tức là trong kết hợp từ ký hiệu học văn hoá, “ký hiệu học” là phương pháp, còn “văn hoá” là đối tượng nghiên cứu. Đồng thời, ở đây, văn hoá không có vị trí đặc biệt gì trong tương quan vối với ký hiệu học, mà ký hiệu học cũng chẳng vó vị thế gì đặc biệt trong tương quan với văn hoá. Các khoa học khác nhau nhất trong chuỗi khoa học nhân văn và xã hội - bắt đầu từ nhân chủng học và cuối cùng là một thứ triết học văn hoá nào đó (ký hiệu học văn hoá đứng đâu đó ở quãng giữa của dẫy này) - đều có thể nghiên cứu văn hoá. Theo cách như thế, sẽ có một khu vực rất rộng các khoa ký hiệu học (ký hiệu học ngôn ngữ, ký hiệu học xã hội, ký hiệu học sinh học, ký hiệu học kinh tế v.v…), và ký hiệu học văn hoá chỉ là một bộ môn khoa học nằm  trong số ấy.

Những vấn đề nói trên được TMS diễn giải hoàn toàn theo cách khác: ký hiệu học và văn hoá có mối liên hệ gắn bó với nhau chặt chẽ tới mức, hoá ra, vấn đề không phải là ở chỗ những khái niệm ấy có thể liên kết với nhau thế nào, mà là ở chỗ, nói chung, liệu có thể chia tách chúng được không? Nền tảng văn hoá được tạo thành bởi các cơ chế ký hiệu học gắn chặt, thứ nhất, với sự bảo tồn các ký hiệu và các văn bản, thứ hai, với sự luân chuyển và tái tạo của chúng và, thứ ba, với sự sản sinh các ký hiệu mới và thông tin mới. Loại cơ chế thứ nhất quyết định ký ức văn hoá, mối liên hệ của nó với truyền thống, duy trì quá trình tự đồng nhất của nó v.v…, loại thứ hai quyết định sự phiên dịch, hoạt động giao tiếp nội bộ và giao liếp liên văn hoá v.v…, cuối cùng, loại thứ ba đảm bảo khả năng đổi mới và gắn kết với hoạt động sáng tạo đa dạng. Những chức năng khác của văn hoá chỉ mang tính phái sinh từ các chức năng ký hiệu học, nền tảng nói trên. Bởi vậy, ký hiệu học không phải là một trong vô số hướng tiếp cận khả thủ để nghiên cứu văn hoá, mà là hướng tiếp cận khởi điểm và cơ bản gắn bó hữu cơ với bản chất của văn hoá: văn hoá học trước hết là ký hiệu học văn hoá.

Ký hiệu học không chỉ là nền móng của lý luận văn hoá, mà còn là nền móng của mội công trình nghiên cứu văn hoá học. Văn hoá học là sản phẩm của sự phản ánh và tự mô tả của văn hoá (điều này tỏ ra chính xác ngay cả đối với khoa dân tộc học của các dân tộc thiểu số “xa lạ” và “kỳ dị”). Văn hoá học tác chiến bằng các ký hiệu của các ký hiệu, sáng tạo ra các văn bản về các văn bản. Vì rằng trong văn hoá không bao giờ có những kiến tạo trước - và ngoài ký hiệu[24], nên sự diễn giải mọi hiện tượng văn hoá đều phải bắt đầu từ việc phân tích ký hiệu học và giải mã chúng [25].

Tóm lại, văn hoá là hiện tượng ký hiệu học. Nhưng cả ký hiệu học cũng là hiện tượng lấy văn hoá làm trung tâm, chứ không phải chỉ có mẽ bề ngoài của văn hoá. Thứ nhất, với ký hiệu học, văn hoá không đơn giản chỉ là một trong vô số đối tượng mô tả, mà là đối tượng hàng đầu và quan trọng nhất; tuyệt đại đa số các lĩnh vực còn lại của ký hiệu học, thế này hay thế khác, đều gắn với ký hiệu học văn hoá, phụ thuộc vào nó. Ký hiệu học trước hết là ký hiệu học văn hoá. Thứ hai, mô tả ký hiệu học không chỉ là một trong vô số hướng tiếp cận khả thủ để nghiên cứu văn hoá, mà còn là góc nhìn gắn bó hữu cơ với bản chất của văn hoá: văn hoá học trước hết là ký hiệu học văn hoá.

 



 

...

(Còn nữa)

Người dịch: Lã Nguyên

Nguồn: История и типология русской культуры. СПб., 2002. С. 5–20


[1] Lotman Iu.M.-  Ký hiệu quyển, Spb., 2000

[2] Cũng cần phải nói rõ, dù Iu.M. xem là không cần đáp trả vô số bài công kích xuất hiện trên các ấn phẩm xô viết, nhưng có hai lần ông đã phát biểu để giải thích một cách ngiêm chỉnh quan điểm của mình trên các trang của tạp chí quốc tế “Russian Literature” (Xem: Mấy lời nhân bài báo của GS. Maria R.Maienova “Thi pháp học trong các công trình của Đại học Tổng hợp Tartu”// Russian Literature. 1974. № 6. Р. 83-90; Lotman Iu.M.- Mấy lời nhân bài bình luận của Ja.M.Meier “Văn học như là thông tin”// Russian Literature. 1975. № 9. Р. 111-118.

[3] In lại: Lotman Iu.M.- Ký hiệu quyển. Tr.462-484.

[4] Iu.M. thường dẫn ra trường hợp Newton nổi giận vì người ta yêu cầu ông chứng minh các định lý hình học, - các định lý ấy đều đã được biết cả rồi.

[5] Dù thuật ngữ có nguồn gốc Hy Lạp, người Hy Lạp cổ đại dĩ nhiên vẫn chưa thể biết tới ký hiệu học như một khoa học khái quát về các ký hiệu. Có lẽ lần đầu tiên từ này được bác sỹ Galen, thời văn minh Hy Lạp  (thế kỷ II) sử dụng. Ông sử dụng để chỉ cái mà bây giờ chúng ta gọi là “triệu chứng” (ở thế kỷ XIX, trong trường Đại học Tartu có Bộ môn Ký hiệu học và nó nằm ở Khoa Y học). Trong công trình Thí nghiệm về trí não người ( 1690), John Lockelà người đầu tiên gọi khoa học về các ký hiệu là ký hiệu học. Xung quanh tên gọi của khoa học về các ký hiệu, có thể tìm hiểu chi tiết hơn ở công trình: Deely J.Semiotics as a posmodern recovery of the cul-tural unconsious // Σημειωτικη. Sign System Studies. V. 28. Tartu, 2000. P. 15-47.

[6] Tất nhiên, ngay cả ở châu Âu cũng có thể tìm thấy không ít người muốn xoá bỏ nguyên tắc này, một trong số những người như thế làHéraclite. Nhưng đáng lưu ý là điều này thường được tiến hành với một sự thiếu nhất quán nào đó. Chẳng hạn, lý lẽ về dòng chảy của Héraclite, thứ nhất, chỉ phủ nhận sự tự đồng nhất của khách thể, chứ không phủ nhận sự tự đồng nhất của chủ thể: không thể tắm hai lần trên cùng một dòng nước bởi vì dòng nước thay đổi, chứ không phải vì người tắm trên dòng nước ấy (cũng có thể lập luận trái ngược lai, nếu dựa trên cảm giác về sự thay đổi thường xuyên của chủ thể trong một thế giới chuyển dịch: “thế hệ này qua, thì thế hệ kia tới, nhưng đất đai thì muôn đời vẫn vậy” – Ekkl 1:4; người tắm có cảm giác là dòng nước thay đổi, trong khi đó, chỉ có bản thân anh ta là thay đổi, còn dòng nước thì vẫn cứ bất biến như vậy), thứ hai, nó không phủ nhận sự tự đồng nhất của khách thể nói chung, mà chỉ phủ nhận sự tự đồng nhất ở một số thời điểm khác nhau: ở từng thời điểm cụ thể, dường như không gì có thể cản trở sự đồng nhất của khách thể với bản thân nó (nếu không đúng như thế, thì không phải hai lần, mà ngay cả một lần cũng chẳng thể tắm được trên một dòng nước; vào cuối những năm 1960, đầu 1970, có một biến thể bị xuyên tạc của một bài ca thuỷ thủ đã cũ, rất phổ biến giữa những nhà ngữ văn học người Nga đang làm việc ở Đại học Tổng hợp Tartu, lời thế này: “Ta bước ra boong tàu, mà boong tàu không có” ). Tiếp tục phân tích câu nói của Héraclite sẽ đòi hỏi phải sử dụng khái niệm trí nhớ: người tắm của Héraclite có trí nhớ, nhưng dòng nước thì không!

[7] Tất nhiên, về nguyên tắc không có gì cản trở việc thực  hiện sự đồng nhất như vậy, ví như khi nói về các ký hiệu tự nghĩa (“ký hiệu tự nghĩa:” tiếng Nga:“автонимный знак”- gốc Hy Lạp “autonym”: ký hiệu được sử dụng để biểu đạt ý nghĩa cho chính bản thân.-ND), hoặc chính xác hơn, về cách sử dụng tính tự nghĩa của các ký hiệu (dịch từ chữ: автонимное употребление знаков”.- ND). Chỉ khi sử dụng tính tự nghĩa, ký hiệu mới đồng nhất với chính nó. Chẳng hạn, khi nói: “nhà là nơi cư trú”, thì từ “nhà” ở đây được sử dụng theo cách thông thường, nhưng trong câu nói: “nhà là từ có ba chữ cái”, thì đây là kiểu sử dụng ký hiệu tự nghĩa. Rõ ràng, cần phải phân biệt rạch ròi các cách sử dụng ấy: nơi cư trú không thể là từ có ba chữ cái. Tuy nhiên, điều quan trọng cần phải chỉ ra ở đây là, sử dụng tính tự nghĩa tuyệt nhiên không phải là cách sử cơ bản các tổ chức ký hiệu, mang tính tự nhiên nhất, hay đơn giản nhất, mà nó thường xuất hiện trong các loại văn hoá phát triển cao và, thông thường, trong các văn cảnh phân tích. Đặc điểm thứ hai của thuộc tính tự nghĩa biểu hiện ở chỗ, chính cách sử dụng tính tự nghĩa, chứ không phải cách sử dụng bình diện khách thể của ký hiệu, thường được chỉ ra bằng những phương tiện đặc biệt (trong văn bản viết thường được để trong các dấu ngoặc đơn hoặc ngoặc kép).

[8] Peirceđã chia các ký hiệu thành 3 bộ ba, tổ hợp của chúng tạo thành 10 dạng ký hiệu; nhưng bộ ba thứ hai có ý nghĩa quan trọng nhất, phần dưới sẽ nói về nhóm này (PeirceCh.S.- Tuyển tập tác phẩm. M.,2000, tr.176-195). Nhằm trình bày một cách đơn giản, ở đây, chúng tôi sẽ xuất phát từ cách giải thích của Peircevề ký hiệu, tức là cách giải thích đang phổ biến nhất hiện nay.

[9] Tiếng Nga: “иконические знаки”, các tài liệu Trung Quốc thường dịch là “hình hiệu”.-ND.

[10] Tiếng Nga: “индексальные знаки”, các tài liệu Trung Quốc dịch là “chỉ hiệu”.-ND.

[11] Tiếng Nga: “символические знаки”, các tài liệu Trung Quốc dịch là “biểu hiệu”.-ND.

[12] Có lẽ, ví dụ tiêu biểu nhất cho trường hợp này là chuyện viện sỹ ở thành phố Logado đề nghị dùng đồ vật, chứ không dùng từ ngữ biểu đạt các đồ vật ấy để trực tiếp diễn đạt tư tưởng của ông. Rất dễ nhận ra, đề án này không đơn giản hoá, mà làm phức phạp hoá quá trình giải nghĩa: đồ vật được trưng ra ở đây không phải là chính nó, cũng không phải là ký hiệu của một đồ vật cùng tên (khác), mà là ký hiệu của một từ biểu đạt ý nghĩa cho vật ấy, tức là ký hiệu của ký hiệu.

[13] Nhận xét dẫn ra ở đây mang tính phỏ quát; chẳng hạn, nếu thay chữ “ký hiệu” bằng chữ “mô hình”, chúng ta sẽ có sơ đồ của phương pháp mô hình hoá.

[14] Friedrich Ludwig Gottlob Frege (1848-1925): Nhà lô gíc học, toán họ, triết học người Đức. Ông là đại diện của Trường phái triết học phân tích, người đặt nền tảng cho học thuyết lấy lô gíc làm trung tâm, “quy toán học về lô gíc học”.- ND.

[15] Frege G.- Nghĩa và ý nghĩa // Frege G.- Tuyển tập công trình. М., 1997. С. 25.

[16] Nt.

[17] Lévi-Strauss C.- Lô gíc học huyền thoại. T.1. Tươi sống và nấu chín. M.,Spb., 2000, tr.22.

[18] Lévi-Strauss C.- Nhân loại học cấu trúc. M.,1983 (đặc biệt các chương: II,III,X).

[19]  Để tránh những hiểu lầm có thể xẩy ra, cần nhớ rằng, vốn là những nhân vật đứng ngoài lề của thế giới hàn lâm ở thời mình, những người cùng thời với Peircevà Saussure hoàn toàn chẳng biết gì về nhau.

[20] “Ký hiệu …là một cái gì đó, cái biểu đạt một cái gì đó đối với ai đó trong một quan hệ hoặc một khối lượng cụ thể” (Pierce C.S.-Tác phẩm chọn lọc, tr.17).

[21] Saussure F.de.- Các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ học. M.,1977, tr.152-153.

[22] Điều đã nói không thể quy về dấu ấn khác biệt thuộc loại “phép biện chứng bộ phận và chỉnh thể” v.v…, bởi vì, trong trường hợp này thì đã biết trước cái gì là chỉnh thể, còn trường hợp kia thì biết trước cái gì là bộ phận. Ở đây, lô gíc hoàn toàn khác. Có thể giải thích điều này bằng một ví vụ mang tính ước lệ từ lĩnh vực xây dựng thế này. Nếu chúng ta có một kho gạch dự trữ và chúng ta ngẫm nghĩ xem liệu có thể làm được cái gì từ kho gạch ấy, thế tức là chúng ta đang đứng trên lập trường nguyên tử luận; còn nếu chúng ta cần xây một ngôi nhà và chúng ta vẽ thiết kế xây dựng để có cơ sở kiếm đủ vật liệu hoàn thành công việc xây dựng ấy (trong đám vật liệu này, có thể có cả gạch), thế tức là chúng ta đang đứng trên lập trường chỉnh thể.

[23] Chẳng hạn, công trình tập thể Đề cương nghiên cúu ký hiệu học văn hoá, do Iu.M. biên soạn cùng tập thể tác giả Vj.Vs.Ivanov, A.M.Piatigorski, V.N.Topỏov và B.A.Uspenski (được in lại trong: Lotman Iu.M.-Ký hiệu quyển. tr.. 504–525).

[24] Việc lĩnh vực văn hoá không phải là cái gì nhất thành bất biên hoàn toàn là chuyện khác, nó thường xuyên hấp thụ những lĩnh vực “phi văn hoá” ngày càng mới và loại bỏ những lĩnh vực cũ (có một bộ phận khác của ký hiệu học văn hoá nghiên cứu các tiến trình loại bỏ văn hoá, gọi là sinh thái học văn hoá). Điều quan trọng là cần nhấn mạnh, rằng tất cả các quá trình nói trên (“hấp thụ”, “chuyển hoá”, “thuần hoá”, “loại bỏ” v.v…) đều là những quá trình ký hiệu học.

[25] Về phương diện này, không chỉ quan điểm lý thuyết của Iu.M.Lotman, mà cả sự giải mã, giải cấu trúc do ông thực hiện có ý nghĩa hết sức lý thú. Chẳng hạn, khi phân tích những tài liệu gốc rõ ràng không đáng tin cậy, ông đã khôi phục những tư liệu có ý nghĩa lịch sử hết sức quan trọng (xem bài của Iu.M.Lotman: Bàn về vấn đề ý nghĩa sử học ở các phát ngôn của người nước ngoài về nước Nga - Lotman Iu.M. - Pushkin. Spb., 1995, tr. 324-329). Có thể liên hệ thêm với kỳ vọng giải mã sơ đồ truyện kể một tác phẩm chưa viết của Pushkin, mà ý đồ của nó chỉ còn giữ lại được một chữ “Iisus” (Lotman Iu.M.- Kinh nghiệm giải cấu trúc truyện kể của Pushkin về “Iisus”// Lotman Iu.M.- Pushkin. Spb., 2000, tr.281-292)

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114521476

Hôm nay

2250

Hôm qua

2303

Tuần này

2250

Tháng này

219415

Tháng qua

121009

Tất cả

114521476