Những góc nhìn Văn hoá

Văn hóa đại chúng và những mẫu hình nam tính ở Đông Á trong mối liên lạc đặc biệt với Trung Quốc (Kỳ 2)

...

Đàn ông, đàn bà và trẻ em

Không nghi ngờ gì nữa, quyền lực của người tiêu dùng - bất kể là được biểu hiện qua việc vô tư sở hữu những thương hiệu nước ngoài như trong “Hồi quốc tuần hỏa ký” hay khả năng bình chọn cho thứ mà người ta tin là đẹp như trong cuộc thi Cô gái siêu đẳng - có thể có ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội. Tuy nhiên, vấn đề chính ở đây là quyền lực nằm trong tay người tiêu dùng.

Và tại châu Á, phụ nữ và giới trẻ đang ngày càng thể hiện quyền lực đó, và đang dần dần biến đổi các quan niệm về thứ đáng được khao khát về mặt tính dục ở cả nam giới và nữ giới. Quyền lực ấy được hỗ trợ bởi sự tăng trưởng mạnh mẽ trong việc sử dụng Internet ở khắp khu vực Đông Á, đồng nghĩa với việc các hình tượng thật sự khả dụng với hàng chục triệu người trong nháy mắt và trong cùng một lúc.

Cũng quan trọng như thế, những phương tiện để truy cập không gian ảo trở nên rẻ hơn, bởi vậy, những thiết bị như điện thoại di động ngày càng nằm trong tầm với của giới trẻ và không quá đắt giá. Ở những nơi thông tin từng là độc quyền của tầng lớp trung lưu thành thị hay giới chính trị thượng lưu, giá cả ngày càng hợp lý và tình trạng sẵn có của các thiết bị điện tử đảm bảo văn hóa đại chúng lan tỏa nhanh chóng đến hầu hết mọi người ở hầu hết các nơi thuộc Trung Quốc.

Việc sử dụng Internet ở khắp khu vực Đông Á cùng những phương tiện để truy cập không gian ảo trở nên rẻ hơn đã góp phần l phụ nữ và giới trẻ tngày càng hể hiện mạnh mẽ quyền lực của người tiêu dùng.

Riêng giới trẻ thành thạo công nghệ mới hơn nhiều, nên họ vượt qua biên giới quốc gia để đến những miền đất mới một cách dễ dàng hơn. Do vậy, nhiều người trong số họ đứng ở tuyến đầu của cuộc cách mạng tính dục toàn cầu nhằm thay đổi nhận thức về các hình mẫu tính dục, và chắc chắn họ không có bất cứ vấn đề gì với vẻ ngoài như đàn ông của Cô gái siêu đẳng Lý Vũ Xuân, dung mạo như con gái của “các chàng trai thanh tú” trong truyện tranh, hay những nam nhân ăn cỏ trong các nhóm nhạc nam. Ngược lại, họ chào đón những người điều chỉnh các khuôn mẫu giới tính này.

Mấy thập kỉ gần đây, kinh tế Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc nằm trong số những nền kinh tế phát triển mạnh mẽ nhất thế giới. Các trao đổi văn hóa theo sau thương mại, thế nên, sản phẩm văn hóa của Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc đang thẩm thấu vào nhận thức của phương Tây - việc chưa từng xảy ra trước đây. Điều này đặc biệt đúng với Trung Quốc kể từ khi các chính trị gia và những nhà kiến tạo hình ảnh nỗ lực phối hợp với nhau để tìm cảm hứng từ các đạo lý truyền thống và cố gắng chứng minh với thế giới rằng các “đặc tính” Trung Quốc có ý nghĩa quan trọng và đáng được ca tụng, và, như trong trường hợp nhiều Viện Khổng tử xuất hiện ở khắp thế giới, đáng được đề cao.

Mười năm trước, khi tôi xuất bản cuốn Theorising Chinese Masculinity, ý định của tôi là vận dụng văn - võ để thể hiện rằng các hình mẫu giới tính của Trung Quốc có những khác biệt to lớn với các hình mẫu chiếm ưu thế theo tinh thần châu Âu là trung tâm. Tôi cũng muốn cho thấy văn - võ là một kiến tạo có thể thay đổi, nhưng trong đa số hoàn cảnh, có thể đào tạo nam nhân để cai trị những người khác. Điều buồn cười là có lẽ tôi không cố ý trở thành một phần của việc thúc đẩy “quyền lực mềm” mang tính dân tộc chủ nghĩa này nhằm xác nhận rằng các mẫu hình nam tính của Trung Quốc khác biệt với những mẫu hình mang tính bá quyền hiện tồn, dẫu tôi định nói rằng, mặc dù cơ chế văn - võ rất thần tình, nhưng nó vẫn được giới cầm quyền sử dụng như công cụ để cai trị.

Chắc chắn, những tầng lớp khác nhau thủa trước đã cố gắng giành lấy ưu thế chính trị theo những cách khác nhau. Nhưng về mặt nam tính, việc sử dụng tư tưởng văn để tranh đoạt quyền lực và ảnh hưởng là điều thường thấy. Nó theo sau những biến đổi kinh tế - xã hội, thế nên, chẳng hạn như khi người Mông Cổ nắm quyền cai trị, những người vạm vỡ hơn - nam tính chiếm ưu thế. Còn trong những thời kỳ bình yên hơn, các vị quan văn nắm ưu thế vì cần cung cấp nhân lực cho bộ máy quan lại khổng lồ.

Giờ đây, một thứ khác đang xuất hiện. Thời hiện đại đòi hỏi những kĩ năng mới như hiểu biết về máy tính, vì vậy, những “kẻ mê máy tính” (otaku, zhai-nan…) có thể được lý tưởng hóa. Tại Đông Á, sự nổi tiếng của những nam nhân lưỡng tính, như các chàng trai tựa con gái hay những anh chàng màu hồng, dường như khá bền vững, và họ cũng đang xuất hiện ở các nền văn hóa khác. Ví dụ, người mẫu nam ở phương Tây đang ngày càng lưỡng tính hóa, có thể là vì những lý do tương tự. Rốt cục, những hoàn cảnh vật chất đang biến chuyển sẽ tiếp tục định hình các kiến tạo tư tưởng như văn - võ, nhưng điều cốt lõi của bản thân những kiến tạo này sẽ giữ nguyên, hầu hết là vì nhìn chung, hạt nhân của các kiến tạo đó có xu hướng là một công cụ đầy quyền uy để sắp đặt các mối quan hệ của con người, bất kể là giữa con người với con người hay giữa các quốc gia. Nhưng sự xuất hiện của chủ nghĩa tiêu thụ và Internet đồng nghĩa với việc những nhóm người mới - phụ nữ và trẻ em - đang có được quyền lực. Thế nên, hệ biểu tượng mới cũng sẽ nảy sinh.

Nhiều ca khúc J-pop và K-pop là lời ca ngợi giới trẻ, và Canto-pop và M-pop[1] cũng thế. Điều này cũng đúng trong quá khứ, nhưng hiện nay đã có sự khác biệt. Các ca sĩ đều rất trẻ, hoặc nhìn rất trẻ. Thành viên các ban nhạc J-pop và K-pop đôi khi chỉ tầm mười tuổi, vậy nên, cả các nhóm nhạc nam lẫn nhóm nhạc nữ có thể nhấn mạnh vào sự kawaii, hay dễ thương. Theo cách này, người tiêu thụ, phần lớn là các thiếu nữ, có thể đồng cảm với những hình tượng thương mại được thiết kế này. Từ khóa ở đây là “thiếu nữ”. Nghiên cứu những biến đổi ở truyện tranh cho thiếu nữ (ch

uyển từ miêu tả những mối quan hệ đồng giới giữa các cô gái sang giữa các chàng trai), Deborah Shamoon (2012) đã chỉ rõ, sự không nhất quán trong hình tượng cô gái/chàng trai trẻ thuộc về trách nhiệm của người thiết lập khung. Trong trường hợp này, hình tượng cô gái lý tưởng - vốn do người xem là nam giới xác định và điều chỉnh - trước những năm 1970 rất khác với những phát triển sau này, đơn giản là vì sau chiến tranh, chính phụ nữ là người kiến tạo hình tượng cũng như người chiêm ngưỡng [30]. Với trường hợp Trung Quốc, những tranh cãi xung quanh chương trình Cô gái siêu đẳng cho thấy, những gì phụ nữ trẻ mong muốn quả thực có thể gây ngạc nhiên, và nhiều người sẽ cần xem xét lại nhận định của mình.

[…] Mặc dù các hình mẫu giới tính lý tưởng được các phương tiện truyền thông đại chúng như phim hoạt hình và các nhóm nhạc pop truyền bá thường hòa nhã hơn và ít phân biệt giới tính hơn trước đây, nhưng dường như lại khiến các nhà lãnh đạo chính trị thường hoang mang về đạo đức khi họ tin rằng giới trẻ đang hành xử trái với xã hội. Những người cầm quyền không thể gọi tình trạng này là “khoảng chân không tinh thần”, vì giới trẻ có thể say mê và “sùng bái” các thần tượng của mình hơn cả những gì các tiền bối dành cho Lôi Phong. Có thể phụ nữ trẻ được xem là không đe dọa sâu sắc đến sự hài hòa trong xã hội, nên khác với việc đóng cửa một số cửa hàng bán các ấn phẩm BL và những chương trình ăn khách như cuộc thi Cô gái siêu đẳng, có những chiến dịch ở phạm vi không lớn lắm để chống lại những hình mẫu lý tưởng mới này. Nhưng chắc chắn, khi mà giới trẻ giỏi giang và hiểu biết hơn thế hệ cũ ở nhiều phương diện, thì những thần tượng của họ bảo chứng cho việc tìm hiểu một cách nghiêm túc. Phải mất công thuyết phục để giới học thuật nhìn nhận tầm quan trọng của việc nghiên cứu phụ nữ, và việc dịch chuyển từ nghiên cứu phụ nữ sang nghiên cứu đàn ông cũng cần một số nỗ lực. Để thực sự hiểu các mối quan hệ của con người và việc giới tính và tính dục được kiến tạo như thế nào, chúng ta có lẽ cần chú ý nhiều hơn đến trẻ em, và, nói như Lỗ Tấn, cứu chúng khỏi các giám hộ đạo đức.

Mai Thu Huyền trích dịch

Nguồn: Kam Louie (2012), “Popular Culture and Masculinity Ideals in East Asia, with Special Reference to China”, The Journal of Asian Studies Vol.71, No.4, tháng 11, tr. 929-943.

 

Tài liệu tham khảo

[1] An Puruo (2003 - còn tiếp), “Hồi quốc tuần hỏa ký”, http://www.emperorbook.com/(truy cập ngày 20/3/2011).

[2] Trung Hoa nhật báo (2006), “Nguyên Bộ trưởng Bộ Văn hóa lên tiếng về định hướng văn hóa”, ngày 8/8, http://www.chinadaily.cn/china/2006-08/08/content_659462.htm(truy cập ngày 15/12/2015).

[3] CNNIC (2010), “China Internet, Telecommunications and Market Report”, http:www.internetworldstats.com/asia/cn.htm (truy cập ngày 5/5/2012).

[4] Connell, R. W. (1998), “Masculinities and Globalization”, Men and Masculinitues 1 (1), tr. 3-23.

[5] Connell, R. W. và Julian Wood (2005), “Globalization and Business Masculinities”, Men and Masculinities 7 (4), tr. 347-364.

[6] Dasgupta, Romit (2006), “The Film Bishonen and Queer(N)Asia through Japanese Popular Culture”, trong Matthew, Allen và Rumi, Sakamoto (biên soạn), Popular Culture, Globalization and Japan, Abington, England: Routledge, tr. 36-55.

[7] Dasgupta, Romit (2010), “Globalisation and the Bodily Performance of ‘Cool’ and ‘Un-cool’ Masculinities in Corporate Japan”, Intersections 23, http://intersections.anu.edu.au/issue23/dasgupta.htm#t16(truy cập ngày 20/5/2012).

[8] Edwards, Louise (1990), “Gender Imperatives in Hongloumeng: Baoyu’s Bisexuality”, Chinese Literature: Essays, Articles, Reviews 12, tr. 69-81.

[9] Gosselin, Erin Michelle (2010), “The New Diet Sensation: ‘Herbivorous’ Men in Japan”, Khóa luận chưa xuất bản, Middlebury College.

[10] Hanxingwang (2012), “Super Junior Completed Its Extremely Popular Concert in Shanghai”, http://ent.sina.com.cn/y/2012-04-16/15023606824.shtml(truy cập ngày 10/5/2012).

[11] Huanqiuwang (2011), “Wen Jiabao Sends a Congratulatory Message to the Japanese Band SMAP on Their Beijing Performance”, http://v.huanqiu.com/news/201109/2011091621537.shtml(truy cập ngày 15/5/2012).

[12] Iida, Yumiko (2005), “Beyond the ‘Feminization of Masculinity’: Transforming Patriarchy with the ‘Feminine’ in Contemporary Japanese Youth Culture”, Inter-Asia Cultural Studies 6 (1), tr. 56-74.

[13] Jian Miaoju và Liu Chang-de (2009), “Democratic Entertaiment’ Commodity and Unpaid Labor of Reality TV: A Preliminary Analysis of China’s Supergirl”, Inter-Asia Cultural Studies 10 (4), tr. 524-543.

[14] Jung, Sun (2006), “Bae Yong-Joon, Hybrid Masculinity & the Counter-coeval Desire of Japanese Female Fans”, Particip@tions 3 (2), http://www.participations.org/volume%203/issue%202%20special/3_02_jung.htm(truy cập ngày 26/4/2012).

[15] Jung, Sun (2009), “The Shared Imagination of Bishonen, Pan-East Asia Soft Masculinity”, Intersections: Gender and Sexuality in Asia and the Pacific 20, http://intersections.anu.edu.au/issue20/jung.htm#n33(truy cập ngày 13/5/2012).

[16] Kan, Michael (2012), “China’s Internet Users Cross 500 Million”, PCWorld India, ngày 17/1, http://www.pcworld.in/news/chinas-internet-users-cross-500-million-61392012(truy cập ngày 20/3/2012).

[17] Liu Ting (2009), “Conflicting Discourses on Boys’ Love and Subcultural Tactics in Mainland China and Hongkong”, Intersections 20, http://intersections.anu.edu.au/issue20/liu.htm(truy cập ngày 20/5/2012).

[18] Liu Ting (2011), “Boys’ Love in Girl Hands: The Survival of a Gendered Youth Culture in Mainland and Hongkong”, Luận án Tiến sĩ chưa xuất bản, Đại học Quốc gia Australia.

[19] Lo, Malinda (2006), “China’s Super Girl”, After Ellen, ngày 21/2, http://www.afterellen.com/archive/elle/People/20/2/supergirl.html(truy cập ngày 1/5/2012).

[20] Loos, Tamara (2009), “AHR Forum: Transnational Histories of Sexualities in Asia”, American Historial Review 114 (5), tr. 1309-1324.

[21] Louie, Kam (2002), Theorising Chinese Masculinity, Cambridge: Đại học Cambridge ấn hành.

[22] Louie, Kam (2003), “Chinese, Japanese and Global Masculine Identities”, trong Kam Louie và Morris Low (biên soạn), Asian Masculinities, London: RoutledgeCurrzon.

[23] Louie, Kam (2011), “Globe-trotting Chinese Masculinitiy: Wealthy, Worldly and Worthy”, Tham luận chưa công bố, Hội thảo của Hiệp hội nghiên cứu Trung Quốc tại Australia, Melbourne.

[24] McLelland, Mark (sắp xuất bản), “Introduction”, trong Mark Lelland, Kazumi Nagaike, Katsuhiko Suganuma và James Welker (biên soạn), Boys Love in Japan, Đại học Mississippi ấn hành.

[25] Miller, Laura (2006), Beauty Up: Exploring Contemporary Japanese Body Aesthetics, Berkeley: Đại học California ấn hành.

[26] Nhân dân nhật báo online (2009), “China Sends 180,000 Students Overseas in 2008”, http://English.people.com.cn/90001/90782/6622497.html(truy cập ngày 15/5/2011)

[27] Pace, Natalie (2006), “China Surpasses U.S. in Internet Use”, Forbes.com, ngày 3/4, http://www.forbes.com/2006/03/31/china-internet-usage-cx_nwp_0403china.html(truy cập ngày 15/5/2012).

[28] SARFT (2007), “The SARFT Further Strengthens the Regulation of Broadcast Contests and Programs with Mass Participation”, http://www.sarft.gov.cn/articles/2007/09/21/20070921114606210182.htm(truy cập ngày 16/12/2012).

[29] SCMP Young Post Sunday (2012), “K-pop Clones for Success”, ngày 4/3, tr. 2.

[30] Shamoon, Deborah (2012), Passionate Friendship: The Aesthetics of Girls’ Culture in Japan, Honolulu: Đại học Hawai’i xuất bản.

[31] Shin, Hyunjoon (2009), “Have You Ever Seen the Rain? And Who’ll Stop the Rain? The Globalizing Project of Korean Pop (K-pop)”, Inter-Asia Cultural Studies 10 (4), tr. 507-523.

[32] Simpson, Mark (1994), “Here Come the Mirror Men”, http://www.marksimpson.com/pages/journalism/mirror_men.html(truy cập ngày 18/5/2012).

[33] “SMAP Holds Its First Overseas Concert in Beijing”, 2011, http://www.xiachuncnjp.com/thread-1685419-1-1.html(truy cập ngày 10/5/2012).

[34] Song Geng và Tracy K. Lee (2010), “Consumption, Class Formation and Sexuality: Reading Men’s Lifestyle Magazines in China”, The China Journal 64, tr. 159-177.

[35] Wong, Edward (2011), “China TV Grows Racy, and Gets a Chaperon”, New York Times, ngày 31/12, http://www.nytimes.com/2012/01/01/world/asia/censors-pull-reins-as-china-tv-chasing-profit-gets-racy.html?pagewanted=all(truy cập ngày 20/5/2012).

[36] Wu Cuncum (2004), Homoerotic Sensibilities in Late Imperial China, London: RoutledgeCurzon.

[37] Yang Guobin (2009), The Power of the Internet in China: Citizen Activism Online, New York: Đại học Columbia ấn hành.

[38] Zhao Xing (2010), “Save the Boys: How China Is Emasculating Its Young Men”, CNNGO, ngày 21/1, http://www.cnngo.com/shanghai/none/save-boys-637264(truy cập ngày 12/7/2012).

[39] Zweig, David, Chung Siu Fung và Donglin Han (2008), “Redefining the Brain Drain: China’s Diaspora Option”, Science Technology & Soci

 

 

 


(*). GS - Đại học Hong Kong. Email: kamlouie@hku.hk

[1]J-pop, K-pop, Canto-pop, M-pop: âm nhạc đại chúng Nhật Bản, Hàn Quốc, Hong Kong, Trung Quốc đại lục (ND).

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114518569

Hôm nay

2208

Hôm qua

2347

Tuần này

21916

Tháng này

216508

Tháng qua

121009

Tất cả

114518569