Đất Nghệ
Đền Cuông: Truyền thuyết và lễ hội
Đền Cuông gắn với một huyền thoại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Đền thờ Thục An Dương Vương - một vị vua có công lớn trong buổi đầu dựng nước. Lễ hội đền Cuông được tổ chức vào dịp rằm tháng Hai âm lịch hàng năm thu hút đông đảo người dân về dự. Sau nhiều năm bị lãng quên, năm 1993, lễ hội đền Cuông được phục hồi. Từ đó đến nay, lễ hội được duy trì hàng năm và trở thành một sinh hoạt văn hóa tâm linh không thể thiếu của người dân Nghệ An và du khách thập phương.
Đền Cuông huyền thoại
Đền Cuông gắn với một huyền thoại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Thục Phán - sau khi được Hùng Vương thứ 18 nhường ngôi đã đoàn kết sức mạnh toàn quân, đại phá quân Tần và lên ngôi vua, lấy hiệu là Thục An Dương Vương. Sau khi lên ngôi, An Dương Vương đổi tên nước Văn Lang thành Âu Lạc, dời đô từ Phong Châu về Cổ Loa, trị vì đất nước trong 50 năm (từ năm 257 đến năm 208 trước công nguyên). Năm 208 trước công nguyên, do mất cảnh giác, Thục An Dương Vương bị Triệu Đà đem quân bất ngờ tấn công, phải rút lui về phương Nam và tuẫn tiết tại Cửa Hiền, phía Bắc chân núi Mộ Dạ, nay thuộc địa phận xã Diễn An, huyện Diễn Châu. Để tưởng nhớ công ơn của Thục An Dương Vương, nhân dân vùng Diễn Châu đã lập miếu thờ ngài ở Cửa Hiền. Ở đó còn có ngôi mộ của công chúa Mỵ Châu. Theo truyền thuyết, tuy đã có miếu thờ, nhưng mỗi khi màn đêm buông xuống, có những đốm lửa lập lòe trên sườn núi Mộ Dạ. Nhiều người nghĩ rằng đó chính là linh hồn của vua Thục muốn yên ngự trên sườn núi nên nhân dân đã lập đền thờ và rước linh hồn Ngài về đó để thờ phụng. Đền thờ Thục An Dương Vương trên núi Mộ Dạ có từ đó.
Đền Cuông không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là một danh thắng mà bất cứ ai đã đến sẽ khó quên bởi sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc và cảnh sắc thiên nhiên. Đền nằm ở lưng chừng núi Mộ Dạ, ngay kề Quốc lộ I, cách thành phố Vinh khoảng 30km về phía Bắc. Trên núi là rừng thông bạt ngàn, sau núi là biển cả mênh mông, dưới chân núi phía Bắc là bãi biển Cửa Hiền bằng phẳng. Những lúc đẹp trời đứng trên núi Mộ Dạ phóng tầm mắt ra bốn phía, ta mới thấy hết được những điều kỳ thú của một vùng non nước hữu tình, cứ ngỡ đây là nơi gặp gỡ của núi và biển, của lịch sử và tình yêu.
Từ cổng vào ở dưới nhìn lên, gần hai chục cột nanh đầu nghê chĩa lên tua tủa như đại pháo dựng. Cổng tam quan, hai chục góc mái cong đầu rồng, đầu phượng, mấy chục góc mái cong của 3 tòa điện và mấy nhà vươn lên không, thành từng dãy thấp lên cao.
Cổng tam quan đồ sộ, cổ kính rêu phong. Cổng giữa ba lầu, những cành si rễ bám vào rêu, khe nẻ thõng xuống khiến cho cảnh trí càng thêm u tịch. Đền có ba tòa. Tòa trung điện xây theo kiểu chồng diêm 8 mái, còn các tòa khác trong đền đều có kiến trúc 4 mái, đầu đao cong vút. Tòa nào cũng đồ sộ, cột to, thành dày với hoa văn, tứ linh chạm trổ rất tinh xảo. Trên các cột, có nhiều câu đối, thơ đề bằng chữ Hán của các quan lại, danh nho thời trước.
Xung quanh đền Cuông, những ngọn núi, những tảng đá đều mang tên những truyền thuyết, những huyền thoại về Thục An Dương Vương.
Tảng đá bàn cờ là nơi Thần An Dương Vương ngồi đánh cờ với Thần Kim Quy từ biển lên. Tảng đá gạo dưới chân núi mộ dạ trông như một khối gạo đông lại. Tương truyền từ Cổ Loa vào đến đây, Thục An Dương Vương phát gạo, cho quân sĩ về nhà làm ăn sinh sống. Số gạo còn lại đông thành tảng đá đó.
Núi Cờ, núi Kiếm, núi Áo, núi Mão, núi Gươm, núi Đầu Cân... mỗi núi mang tên một vật trên mình của Thục An Dương Vương.
Truyền thuyết và lịch sử, thực và hư, những dấu tích đã rêu phong, đã hoen mờ cùng thời gian, chỉ còn lại đó là một Đền Cuông linh thiêng. Bởi thế mà không chỉ người dân Nghệ An mà du khách thập phương khi qua đền Cuông, như một phản xạ tự nhiên, đều dừng chân nơi ngôi đền lịch sử này, thắp nén nhang, và hồi ức lại câu chuyện lịch sử thấm đẫm nước mắt về tình yêu, tình phụ tử trong buổi đầu của thời kỳ dựng nước.
Linh thiêng lễ hội đền Cuông.
Ngày xưa triều đình quy định lễ hội đền Cuông là quốc lễ, quốc tế. Nhưng việc tổ chức lễ hội do tổng Cao Xá gồm 4 thôn: Cao Ái, Cao Quan, Tập Phúc, Yên Phụ đảm nhiệm. Không giống như lễ hội Cổ Loa, ở đền Cuông trước đây chỉ có lễ tế thần, mỗi năm có một kỳ đại tế vào ngày rằm tháng hai âm lịch. Trong kỳ đại tế, khu đền rợp cờ, lọng, tàn. Trống chiêng vang dậy cả khu rừng. Người dự lễ, người đi xem đủ lứa tuổi nườm nượp. Nghi thức tế lễ ở đền Cuông cũng là nghi thức tế lễ cổ truyền như ở các nơi khác. Các vị tế lễ đều là quan chức (đã nghỉ hưu hoặc đương chức) mặc triều phục, người nào cũng áo mũ cân đai làm cho buổi tế thần càng uy nghiêm! Ngày 16/2, tứ thôn lại tiếp tục tế lễ ở đền. Tứ thôn còn có một kỳ tế nữa vào ngày 15/6 âm lịch.
Trong các kỳ tế lễ, ban đêm đều có hát tuồng, chèo, đốt đèn bông, đèn hoa thật vui vẻ.
Ngoài các kỳ tế lễ nói trên và những ngày sóc vọng tuần tiết do ban phụng sự cúng lễ, hàng ngày vẫn có người đến tế thần cầu ban phúc. Nhưng lễ cầu lớn nhất là lễ cầu đảo (cầu xin mưa). Quang cảnh lễ tế thần cũng thật uy nghi và thiêng liêng: Đàn tế dựng trước đền rất cao, khói hương nghi ngút, cửa đền rộng mở, đèn nến sáng trưng, cờ lọng rợp trời, kiệu thần các xã rước đến sắp thành hàng dài, tiếng trống đại như thấu lên thiên đình. Lễ cầu đảo ít nhất một vài ngày, có khi kéo dài hàng tuần.
Trải qua nhiều biến cố lịch sử, việc tế lễ hàng năm ở đền Cuông một thời gian dài sau đó không thực hiện được. Mãi đến năm 1993, lễ hội đền Cuông được phục hồi.
Gần 20 năm qua, lễ hội đền Cuông được tổ chức hàng năm với các lễ nghi trang trọng mà linh thiêng: lễ khai quang, lễ cáo trung thiên, lễ yết, lễ rước, lễ đại tế và lễ tạ. Lễ khai quang diễn ra đầu tiên, được tổ chức vào ngày 12/2 ÂL để xin phép các vị thần cho nhân dân dọn dẹp đền, chuẩn bị cho lễ hội. Sau lễ khai quang là lễ cáo trung thiên được tổ chức vào sáng ngày 14/2 để báo cáo với các vị thần rằng công việc dọn dẹp đền đã hoàn thành, mời các vị về đền tham dự lễ hội và chứng dám cho lòng thành kính của nhân dân. Lễ yết diễn ra vào chiều tối ngày 14/2 gồm 6 bước được tiến hành qua 35 lần xướng. Sau phần hành lễ là phần dâng hương của đại diện các ban, ngành và người dân về dự lễ. Cũng trong tối 14/2, còn có lễ rước vua và công chúa vi hành. Sáng 15/2 tiến hành lễ rước vua, công chúa và tướng Cao Lỗ từ đình Xuân Ái về đền Cuông. Sau đó là lễ đại tế. Lễ đại tế là lễ chính, bao gồm 8 bước. Trình tự và nội dung của buổi lễ tương tự như lễ yết, nhưng có thêm hai lần dâng hương, rượu. Lễ tạ được tổ chức vào sáng ngày 16/2 để tạ ơn các vị thần đã về dự lễ.
Trong thời gian lễ hội, ban ngày có các trò chơi truyền thống, thi đấu thể thao như đánh đu, chọi gà, kéo co, cờ người, biểu diễn võ cổ truyền, thi đấu bóng chuyền, hội trại... ban đêm có hát ca trù, tuồng, chèo, đốt lửa trại… không khí lễ hội thật là hấp dẫn, tưng bừng, náo nhiệt.
Sau khi đền Cuông được tôn tạo và lễ hội hoạt động trở lại, người dân đã chứng kiến những sự việc có mức độ trùng lặp đến lạ kỳ. Đó là chim hạc bay về đền đúng ngày khai mạc Lễ hội đền Cuông năm 1995, rồi cá voi chết dạt vào bờ biển cửa Hiền dịp lễ hội đền Cuông năm 1996. Mọi người đinh ninh rằng, hạc về là hiện thân cho Mị Châu, và cá voi chết dạt vào bờ biển là minh chứng cho cái chết đầy bi thảm của An Dương Vương. Những sự kiện ấy càng làm cho lễ hội đền Cuông thêm linh thiêng hơn.
Những nghi thức và độ trang trọng của lễ hội đền Cuông không thua kém bất cứ Lễ hội nào khác ở Việt Nam. Chính vì thế mà lễ hội đền Cuông đã trở thành nét văn hóa tâm linh không thể thiếu của người dân Nghệ An và du khách bốn phương./.
tin tức liên quan
Videos
Từ “Vịnh” đến “Vinh”
Bảng tra Các chức quan, phẩm tước, học vị thời phong kiến Việt Nam
Bác Hồ với quê hương, quê hương với Bác Hồ
Ký ức trường xưa và chuyện di dời các ngôi trường
Hồi sinh trang phục truyền thống người Ơ Đu
Thống kê truy cập
114521238
212
2303
212
219177
121009
114521238