Ở Tây Âu tầm quan trọng của máy in đã được nhận ra mau chóng. Trong năm 1460 đã có máy in rồi ngang biên giới, ở Strasbourg, Pháp. Vào cuối các năm 1460 công nghệ đã lan ra khắp Italy, với các máy in ở Rome và Venice, không lâu sau ở Florence, Milan, và Turin. Vào năm 1476 William Caxton đã lắp đặt một máy in ở London, và hai năm sau đã có một máy ở Oxford. Trong cùng thời kỳ, nghành in đã lan khắp các Nước Thấp (Luxemburg, Bỉ, Hà Lan) sang Tây Ban Nha, và thậm chí sang Đông Âu, với một máy in mở ở Budapest năm 1473 và ở Cracow một năm sau.
Không phải tất cả mọi người đều thấy việc in như một đổi mới đáng mong muốn. Ngay từ 1485, Sultan Ottoman Bayezid II đã ban một chỉ dụ rằng những người Muslim bị tuyệt đối cấm in bằng tiếng Arab. Quy tắc này còn được thực thi thêm nữa bởi Sultan Selim I trong năm 1515. Đã chỉ đến 1727 thì máy in đầu tiên mới được phép trên đất Ottoman. Sultan khi đó Ahmed III đã ban hành một sắc lệnh cấp phép cho Ibrahim Müteferrika để lắp đặt một máy in. Ngay cả bước đi muộn màng này đã bị bao vây bởi các ràng buộc hạn chế. Mặc dù sắc lệnh đã lưu ý, “ngày may mắn kỹ thuật này của phương Tây sẽ được bỏ mạng che mặt giống một cô dâu và sẽ không bị che dấu nữa,” máy in của Müteferrika đã bị giám sát chặt chẽ. Sắc lệnh nói rõ:
để cho các sách không in các lỗi, các học giả tôn giáo thông minh, được tôn trọng và xứng đáng, chuyên môn hóa về luật Islamic, pháp quan xuất sắc của Instanbul, Mevlana Ishak, và pháp quan của Seleniki, Mevlana Sahib, và pháp quan của Galata, Mevlana Asad, cầu mong cho công trạng của họ được tăng lên, và từ các trật tự tôn giáo vinh quang, rường cột của các học giả tôn giáo ngay thẳng, Đạo trưởng (Sheykh) của Kasim Paşa Mevlevihane, Mevlana Musa, cầu mong cho sự sáng suốt và hiểu biết của ngài được tăng lên, sẽ giám sát việc đọc bản in thử.
Müteferrika đã được phép lắp đặt một máy in, nhưng bất cứ thứ gì ông in đều phải được hiệu đính bởi một ban gồm ba học giả tôn giáo và pháp lý, các pháp quan. Có thể sự khôn ngoan và hiểu biết của các pháp quan, giống như của bất cứ ai khác, đã có thể tăng nhanh hơn nhiều giả như máy in đã sẵn có để dùng dễ dàng hơn. Nhưng đã không phải thế, ngay cả sau khi Müteferrika đã được phép để lắp đặt máy in của ông.
Không ngạc nhiên Müteferrika cuối cùng đã in ít sách, chỉ mười bảy cuốn giữa năm 1729, khi máy in bắt đầu hoạt động, và 1743, khi ông ngừng làm việc. Gia đình ông đã thử tiếp tục truyền thống, nhưng họ đã xoay xở để in chỉ được bảy cuốn sách nữa cho đến lúc cuối cùng họ đã phải bỏ cuộc vào năm 1797. Bên ngoài lõi của Đế chế Ottoman, ngoài Thổ Nhĩ Kỳ, ngành in còn đã tụt hậu xa hơn. Thí dụ, ở Ai Cập, máy in đầu tiên được lắp đặt chỉ trong năm 1798, bởi những người Pháp những người đã là phần của sự cố gắng bởi Napoleon Bonaparte để chiếm nước này. Cho đến mãi quá nửa thứ hai của thế kỷ thứ mười chín, sản xuất sách ở Đế chế Ottoman vẫn chủ yếu do những người chép sách thực hiện sao chép bằng tay các sách đã có. Vào đầu thế kỷ thứ mười tám, được cho là đã có tám mươi ngàn người chép tay như vậy hoạt động ở Istanbul.
Sự chống đối này đối với máy in đã có các hệ quả hiển nhiên cho sự biết đọc biết viết, giáo dục, và thành công kinh tế. Trong năm 1800 đã có lẽ chỉ 2 đến 3 phần trăm công dân của Đế chế Ottoman biết đọc biết viết, so với 60 phần trăm của đàn ông và 40 phần trăm cho đàn bà ở Anh. Tại Hà Lan và Đức, tỷ lệ biết đọc biết viết còn cao hơn. Các vùng Ottoman đã tụt hậu rất xa ở đằng sau các nước Âu châu đạt mức giáo dục thấp nhất, như Bồ Đào Nha, nơi chỉ có khoảng 20 phần trăm người lớn biết đọc biết viết.
Căn cứ vào các thể chế Ottoman hết sức chuyên chế và khai thác, sự thù nghịch của sultan đối với máy in là dễ hiểu. Sách truyền bá các ý tưởng và làm cho rất khó để kiểm soát dân cư. Một số trong các ý tưởng này có thể là những cách mới có giá trị để làm tăng sự tăng trưởng kinh tế, nhưng các ý tưởng khác có thể có tính chất lật đổ và thách thức hiện trạng chính trị và xã hội. Sách cũng làm xói mòn quyền lực của những người kiểm soát sự hiểu biết bằng lời nói, vì chúng làm cho tri thức đó sẵn có dễ dàng hơn cho bất cứ ai biết đọc. Việc này đã đe dọa làm xói mòn hiện trạng, nơi tri thức được kiểm soát bởi các elite. Các sultan Ottoman và giới quyền uy tôn giáo đã sợ sự phá hủy sáng tạo mà có thể xảy ra do sách. Giải pháp của họ đã là cấm in.
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP đã tạo ra một bước ngoặt mà đã tác động đến hầu như mọi nước. Một số quốc gia, như Anh, không chỉ đã cho phép, mà đã khuyến khích một cách tích cực thương mại, công nghiệp hóa, và tinh thần kinh doanh khởi nghiệp, và đã phát triển nhanh. Nhiều quốc gia, như Đế chế Ottoman, Trung Quốc, và các chế độ chuyên chế khác, đã tụt lại phía sau vì họ đã ngăn chặn, hoặc nói nhẹ đi đã chẳng làm gì để khuyến khích sự mở rộng công nghiệp. Các thể chế chính trị và kinh tế đã định hình các phản ứng đối với đổi mới công nghệ, một lần nữa tạo ra hình mẫu quen thuộc về sự tương tác giữa các thể chế hiện tồn và các bước ngoặt dẫn đến sự phân kỳ về các thể chế và kết quả kinh tế.
Đế chế Ottoman đã vẫn là chuyên chế cho đến khi nó sụp đổ vào cuối Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, và như thế nó đã có khả năng chống đối một cách thành công hay cản trở các đổi mới như máy in và sự phá hủy sáng tạo mà sự đổi mới đã có thể gây ra. Lý do của việc những thay đổi kinh tế đã xảy ra tại Anh lại đã không xảy ra trong Đế chế Ottoman, là mối quan hệ tự nhiên giữa các thể chế chính trị chuyên chế khai thác và các thể chế kinh tế khai thác. Chính thể chuyên chế là sự cai trị không bị ràng buộc bởi luật hay nguyện vọng của những người khác, mặc dù trên thực tế các nhà chuyên chế cai trị với sự với sự ủng hộ của một nhóm nhỏ nào đó hay elite. Tại nước Nga thế kỷ thứ mười chín, chẳng hạn, các sa hoàng đã là các nhà cai trị chuyên chế được ủng hộ bởi một giới quý tộc đại diện cho khoảng 1 phần trăm toàn bộ dân cư. Nhóm hẹp này đã tổ chức các thể chế chính trị để làm cho họ vĩnh viễn giữ được quyền lực. Đã không có Quốc hội hay sự đại diện chính trị nào của các nhóm khác ở nước Nga cho đến 1905, khi sa hoàng lập ra Duma, mặc dù ông đã nhanh chóng làm xói mòn một vài quyền hạn mà ông đã ban cho nó. Không ngạc nhiên, các thể chế kinh tế đã là khai thác, được tổ chức để làm cho sa hoàng và giới quý tộc càng giàu càng tốt. Cơ sở của hệ thống này, như của nhiều hệ thống kinh tế khai thác, đã là một hệ thống cưỡng bức và kiểm soát lao động đông đảo, dưới hình thức đặc biệt tàn ác của chế độ nông nô Nga.
Chính thể chuyên chế đã không là loại duy nhất của thể chế chính trị ngăn cản công nghiệp hóa. Mặc dù các chế độ chuyên chế đã không là đa nguyên và đã sợ sự phá hủy sáng tạo, nhiều chế độ đã có các nhà nước tập trung, hay chí ít các nhà nước đủ tập trung để áp đặt những sự cấm đoán đối với các đổi mới, như cấm máy in. Ngay cả ngày nay, các nước như Afghanistan, Haiti, và Nepal có các nhà nước quốc gia mà thiếu sự tập trung chính trị. Ở châu Phi hạ-Sahara tình hình còn tồi tệ hơn. Như chúng ta đã lập luận trước đây, không có một nhà nước tập trung để mang lại trật tự và thực thi các quy tắc và các quyền tài sản, các thể chế bao gồm không thể nổi lên. Chúng ta sẽ thấy trong chương này rằng trong nhiều phần của châu Phi hạ-Sahara (thí dụ Somalia và nam Sudan) một rào cản chính đối với công nghiệp hóa đã là sự thiếu bất cứ hình thức nào của sự tập trung hóa chính trị. Không có những điều kiện tiên quyết tự nhiên này, công nghiệp hóa không có cơ hội nào để cất cánh.
Chính thể chuyên chế và sự thiếu tập trung chính trị hay sự tập trung chính trị yếu là hai rào cản đối với sự mở rộng công nghiệp. Nhưng chúng cũng liên hệ với nhau; cả hai được giữ tại vị trí bởi nỗi sợ phá hủy sáng tạo và bởi vì quá trình tập trung hóa chính trị thường tạo ra chính thể chuyên chế. Sự kháng cự đối với sự tập trung hóa chính trị được thúc đẩy bởi các lý do giống như sự kháng cự đối với các thể chế chính trị bao gồm: sợ mất quyền lực chính trị, lần này, cho nhà nước tập trung mới và những người kiểm soát nó. Chúng ta đã thấy ở chương trước, quá trình tập trung hóa chính trị dưới thời Tudor ở nước Anh đã làm tăng thế nào các đòi hỏi cho tiếng nói và sự đại diện bởi các giới elite địa phương khác nhau trong các thể chế chính trị quốc gia như một cách để ngăn chặn sự mất quyền lực chính trị này. Một Quốc hội mạnh hơn đã được tạo ra, cuối cùng đã làm cho sự nổi lên của các thể chế chính trị bao gồm là có thể.
Nhưng trong nhiều trường hợp khác, đúng là điều ngược lại xảy ra, và quá trình tập trung hóa chính trị cũng mở ra một thời đại của chính thể chuyên chế lớn hơn. Điều này được minh họa bởi các nguồn gốc của chính thể chuyên chế Nga, mà đã được Peter Đại Đế tạo dựng giữa 1682 và năm ông mất 1725. Peter đã xây dựng một thủ đô mới ở Saint Peterburg, tước đoạt quyền lực từ giới quý tộc cũ, nhà Boyar, để tạo ra một nhà nước quan liêu hiện đại và quân đội hiện đại. Ông thậm chí đã giải tán Duma Boyar mà đã biến ông thành sa hoàng. Peter đã đưa ra Bảng Cấp bậc, một hệ thống thứ bậc xã hội hoàn toàn mới mà bản chất của nó đã là phục vụ sa hoàng. Ông cũng đã nắm quyền kiểm soát Giáo hội, hệt như Henry VIII đã làm khi tập trung hóa nhà nước ở Anh. Với quá trình này của tập trung hóa chính trị, Peter đã lấy đi quyền lực từ những người khác và chuyển hướng nó về cho chính mình. Các cuộc cải cách quân sự của ông đã khiến cho đội quân hoàng gia truyền thống, Streltsy, thành quân phiến loạn. Cuộc nổi loạn của họ được tiếp nối bởi các cuộc khác, như những người Bashkir ở Trung Á và cuộc Nổi loạn Bulavin. Chẳng cuộc nào thành công.
Mặc dù dự án tập trung hóa chính trị của Peter Đại Đế đã thành công và đã thắng phe đối lập, các loại lực lượng mà đã phản đối sự tập trung hóa nhà nước, như Streltsy, những người thấy quyền lực của họ bị thách thức, đã chiến thắng ở nhiều phần của thế giới, và sự thiếu tập trung hóa nhà nước do nó gây ra đã có nghĩa là sự tồn tại dai dẳng của một loại khác của các thể chế khai thác.
Trong chương này, chúng ta sẽ thấy trong bước ngoặt do Cách mạng Công nghiệp tạo ra, nhiều quốc gia đã lỡ chuyến tàu thế nào và đã không tận dụng được sự mở rộng công nghiệp ra sao. Hoặc họ đã có các thể chế chính trị chuyên chế và các thể chế kinh tế khai thác, như ở Đế chế Ottoman, hay họ đã thiếu sự tập trung hóa chính trị, như ở Somalia.
MỘT SỰ KHÁC BIỆT NHỎ MÀ LÀ QUAN TRỌNG
Chính thể chuyên chế đã sụp đổ ở nước Anh trong thế kỷ thứ mười bảy nhưng đã trở nên mạnh hơn ở Tây Ban Nha. Cái tương đương ở Tây Ban Nha với Quốc hội Anh, là Cortes, đã chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Tây Ban Nha được tạo dựng trong năm 1492 với sự sáp nhập của các vương quốc Castile và Aragon, thông qua hôn nhân của Nữ hoàng Isabella và Vua Ferdinand. Thời điểm đó đã trùng với sự kết thúc của cuộc Chinh phục lại, một quá trình dài để đuổi những người Arab những người đã chiếm đóng miền nam Tây Ban Nha, và đã xây dựng các thành phố lớn Granada, Cordova, và Serville, từ thế kỷ thứ tám. Nhà nước Arab cuối cùng trên Bán đảo Iberian, Granada, đã rơi vào tay Tây Ban Nha vào cùng thời gian Christopher Columbus đến châu Mỹ và bắt đầu đòi các vùng đất này cho Nữ hoàng Isabella và Vua Ferdinand, những người đã tài trợ chuyến đi của ông.
Sự sáp nhập các quốc vương Castile và Aragon và các cuộc hôn nhân và sự thừa kế vương triều tiếp sau đã tạo ra một siêu nhà nước Âu châu. Isabella chết năm 1504, con gái bà Joanna được phong làm nữ hoàng Castile. Joanna đã kết hôn với Philip của Nhà Habsburg, con trai của hoàng đế Maximilian I của Đế chế La Mã Thần thánh. Trong năm 1516, Charles con trai của Joanna và Philip, được tôn lên làm vua Charles I của Castile và Aragon. Khi cha ông chết, Charles thừa kế Hà Lan và Franche-Comté [một vùng gồm 4 tỉnh phía đông nước Pháp], mà ông thêm vào các vùng lãnh thổ của mình ở Iberia và châu Mỹ. Trong năm 1519, khi Maximilian I chết, Charles cũng thừa kế các lãnh thổ Hubsburg ở Đức và trở thành Hoàng đế Charles V của Đế chế La Mã Thần thánh. Cái đã là một sự sáp nhập của hai vương quốc Tây Ban Nha, đã trở thành một đế chế đa đại lục, và Charles đã tiếp tục dự án tăng cường nhà nước chuyên chế mà Isabella và Ferdinand đã khởi động.
Nỗ lực để xây dựng và củng cố chính thể chuyên chế ở Tây Ban Nha được sự giúp đỡ khổng lồ bởi việc phát hiện ra các kim loại quý ở châu Mỹ. Bạc đã được phát hiện ra rồi với số lượng lớn tại Guanajuato, ở Mexico, vào các năm 1520, và không lâu sau ở Zacatecas, Mexico. Việc chinh phục Peru sau 1532 thậm chí đã tạo ra nhiều của cải hơn cho nền quân chủ. Khoản này đến dưới dạng một khoản chia phần, “một phần năm thuộc nhà vua”, trong mọi của cướp bóc được từ sự chinh phục và cả từ các mỏ. Như chúng ta đã thấy ở chương 1, một núi bạc đã được phát hiện ở Potosí vào các năm 1540, đổ nhiều của cải hơn vào kho bạc của nhà vua Tây Ban Nha.
Vào thời gian sáp nhập Castile và Aragon, Tây Ban Nha đã là giữa các phần thành công nhất về mặt kinh tế của châu Âu. Sau khi hệ thống chính trị chuyên chế của nó đã được củng cố, nó đã bước vào sa sút tương đối và sau đó, sau năm 1600, vào sự sa sút tuyệt đối. Hầu như hành động đầu tiên của Isabella và Ferdinand sau Tái Chinh phục đã là tước đoạt những người Do Thái. Khoảng hai trăm ngàn người Do Thái ở Tây Ban Nha đã được cho bốn tháng để rời đi. Họ đã phải bán tống bán tháo đất và các tài sản của họ với giá rẻ mạt và đã không được phép mang một chút vàng hay bạc nào ra khỏi nước. Một thảm họa con người tương tự đã được tiến hành chỉ hơn một trăm năm sau. Giữa 1609 và 1614, Philip III đã trục xuất những người Morisco, các hậu duệ của các công dân của các nhà nước Arab trước kia ở miền nam Tây Ban Nha. Hệt như với những người Do Thái, những người Morisco đã phải ra đi với cái gì họ đã có thể mang và đã không được phép mang bất cứ lượng vàng, bạc hay kim loại quý nào theo mình.
Các quyền tài sản đã không an toàn theo các chiều kích khác dưới sự cai trị Habsburg ở Tây Ban Nha. Philip II, người nối ngôi cha mình, Charles V, vào năm 1556, đã không trả được các khoản nợ của mình trong năm 1557, và lần nữa trong năm 1560, đã làm phá sản các gia đình Fugger và Welser kinh doanh ngân hàng. Vai trò của các gia đình Đức kinh doanh ngân hàng sau đó được đảm nhiệm bởi các gia đình người xứ Genoese kinh doanh ngân hàng, những người đến lượt lại bị làm cho phá sản bởi những sự vỡ nợ Tây Ban Nha dưới triều đại của họ Habsburg trong các năm 1575, 1596, 1607, 1627, 1647, 1652, 1660, và 1662.
Cũng cốt yếu đúng như sự bất ổn định của các quyền tài sản ở Tây Ban Nha chuyên chế đã là tác động của chính thể chuyên chế lên các thể chế kinh tế của thương mại và sự phát triển của đế chế thuộc địa Tây Ban Nha. Như chúng ta đã thấy ở chương trước, thành công kinh tế của nước Anh đã dựa trên sự mở rộng buôn bán nhanh chóng. Mặc dù, so với Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, nước Anh đã là người đến sau với thương mại Đại Tây Dương, nó đã cho phép sự tham gia có cơ sở tương đối rộng vào buôn bán và các cơ hội thuộc địa. Cái đã nhồi đầy kho bạc của Quốc vương ở Tây Ban Nha đã làm giàu cho tầng lớp nhà buôn mới nổi ở nước Anh. Chính tầng lớp nhà buôn này đã tạo thành cơ sở của tính năng động kinh tế của nước Anh lúc ban đầu và đã trở thành bức tường thành của liên minh chính trị chống chuyên chế.
Ở Tây Ban Nha các quá trình này, mà đã dẫn đến tiến bộ kinh tế và thay đổi thể chế, đã không diễn ra. Sau khi châu Mỹ được khám phá ra, Isabella và Ferdinand đã tổ chức thương mại giữa các thuộc địa mới của họ và Tây Ban Nha thông qua một phường hội của các nhà buôn ở Serville. Cơ sở hẹp, được độc quyền buôn bán này đã có nghĩa rằng không có tầng lớp rộng nào của các nhà buôn đã có thể nổi lên qua các cơ hội buôn bán với các thuộc địa. Ngay cả thương mại ở bên trong châu Mỹ cũng đã bị điều tiết một cách nặng nề. Thí dụ, một nhà buôn ở một thuộc địa như Tây Ban Nha Mới, đại thể là Mexico hiện đại, đã không thể buôn bán trực tiếp với bất cứ ai ở Grenada Mới, Colombia hiện đại. Những hạn chế này lên thương mại ở bên trong Đế chế Tây Ban Nha đã làm giảm sự thịnh vượng kinh tế của nó và, một cách gián tiếp, đã làm giảm các ích lợi tiềm tàng mà Tây Ban Nha đã có thể có được qua buôn bán với đế chế khác, thịnh vượng hơn. Tuy nhiên, chúng [các thể chế] đã là khai thác bởi vì chúng đã đảm bảo rằng bạc và vàng tiếp tục chảy về Tây Ban Nha.
Các thể chế kinh tế khai thác của Tây Ban Nha đã là kết quả trực tiếp của sự xây dựng chính thể chuyên chế và con đường khác, so với nước Anh, mà các thể chế chính trị đã đi. Cả Vương quốc Castile lẫn Vương quốc Aragon đã đều có Cortes của mình, một quốc hội đại diện cho các nhóm khác nhau, hay các “estaste-đẳng cấp” khác nhau, của vương quốc. Như với Quốc hội Anh, Cortes xứ Castile phải được triệu tập để chuẩn y các loại thuế mới. Tuy nhiên, Cortes ở Castile và Aragon chủ yếu đã đại diện cho các thành phố lớn, hơn là các vùng cả đô thị lẫn nông thôn, như Quốc hội Anh đã đại diện. Vào thế kỷ thứ mười lăm, nó đã đại diện chỉ cho mười tám thành phố, mỗi thành phố cử hai đại biểu. Hệ quả là, Cortes đã không đại diện cho một tập hợp của các nhóm rộng như Quốc hội Anh đã đại diện, và nó đã chẳng bao giờ phát triển như một mối liên hệ của các nhóm lợi ích đa dạng ganh đua để đặt các ràng buộc hạn chế lên chính thể chuyên chế. Nó đã không thể làm luật, và thậm chí phạm vi của các quyền hạn của nó liên quan đến đánh thuế đã bị hạn chế. Tất cả điều này đã làm cho dễ hơn đối với nền quân chủ Tây Ban Nha để cho Cortes ra ngoài lề trong quá trình củng cố chính thể chuyên chế riêng của nó. Ngay cả với số bạc đến từ châu Mỹ, Charles V và Philip II đã đòi hỏi thu nhập thuế ngày càng tăng để chi cho một loạt các cuộc chiến tranh tốn kém. Trong năm 1520 Charles V đã quyết định để trình ra Cortes đòi hỏi tăng thuế. Các elite thành thị đã tận dụng thời điểm để đòi sự thay đổi rộng hơn trong Cortes và quyền hạn của nó. Sự chống đối này đã trở nên mãnh liệt và mau chóng trở thành cái được biết đến như cuộc Nổi loạn Comunero. Charles đã có khả năng dẹp tan cuộc nổi loạn với quân lính hoàng gia. Suốt phần còn lại của thế kỷ thứ mười sáu, tuy vậy, đã có một cuộc chiến đấu liên tục vì Quốc vương đã thử cố giành cho được từ Cortes các quyền để thu các loại thuế mới và tăng các loại thuế cũ mà nó đã có quyền. Mặc dù cuộc chiến đấu này đã lúc lên lúc xuống, cuối cùng phần thắng đã thuộc về nền quân chủ. Sau 1664, Cortes đã không họp nữa cho đến khi nó được tổ chức lại trong các cuộc xâm lấn của Napoleon gần 150 năm sau.
Ở nước Anh sự thất bại của chính thể chuyên chế đã dẫn không chỉ đến các thể chế chính trị đa nguyên mà cũng đến sự phát triển thêm nữa của một nhà nước tập trung hiệu quả hơn nhiều. Ở Tây Ban Nha điều ngược lại đã xảy ra khi chính thể chuyên chế thắng lợi. Mặc dù nền quân chủ đã hoạn Cortes và đã dỡ bỏ bất cứ ràng buộc hạn chế nào lên ứng xử của nó, nó đã ngày càng trở nên khó để thu thuế, ngay cả khi nó đã thử bằng thương lượng trực tiếp với các thành phố. Trong khi nhà nước Anh đã tạo ra một bộ máy thuế vụ hiện đại và hiệu quả, nhà nước Tây Ban Nha đã lại di chuyển theo hướng ngược lại. Nền quân chủ đã không chỉ thất bại để tạo ra các quyền tài sản an toàn cho các doanh nhân khởi nghiệp và đã độc quyền hóa thương mại, mà nó cũng đã bán các chức vụ, thường biến chúng thành các chức cha truyền con nối, ham mê sự thầu thuế, và thậm chí bán sự được miễn xét xử.
Các hệ quả của các thể chế chính trị và kinh tế khai thác này ở Tây Ban Nha đã có thể tiên đoán được. Trong thế kỷ thứ mười bảy, trong khi nước Anh đang di chuyển theo hướng tăng trưởng thương mại và sau đó công nghiệp hóa nhanh chóng, thì Tây Ban Nha sa theo hướng suy thoái kinh tế lan rộng. Vào đầu thế kỷ, một trong năm người Tây Ban Nha đã sống ở các vùng đô thị. Vào cuối thế kỷ, con số này đã giảm đi một nửa xuống còn một trong mười người, trong một quá trình mà tương ứng với sự ngày càng nghèo đi của dân cư Tây Ban Nha. Thu nhập Tây Ban Nha đã giảm sút, trong khi nước Anh dần trở nên giàu có.
Sự tồn tại dai dẳng của chính thể chuyên chế ở Tây Ban Nha, trong khi nó bị trốc tận rễ ở nước Anh, là một thí dụ nữa về những khác biệt nhỏ là có ý nghĩa trong các bước ngoặt. Những sự khác biệt nhỏ đã là về sức mạnh và bản chất của các thể chế đại diện; bước ngoặt đã là sự khám phá ra châu Mỹ. Sự tương tác của những thứ này đã đưa Tây Ban Nha lên một con đường thể chế rất khác với nước Anh. Các thể chế kinh tế tương đối bao gồm mà đã nảy sinh ở nước Anh đã tạo ra tính năng động kinh tế chưa từng thấy, lên đỉnh điểm trong Cách mạng Công nghiệp, trong khi công nghiệp hóa đã không có cơ hội nào ở Tây Ban Nha. Vào lúc công nghệ công nghiệp đã lan ra nhiều phần của thế giới, nền kinh tế Tây Ban Nha đã suy sụp nhiều đến mức thậm chí đã không có nhu cầu đối với Quốc vương hay các elite chủ sở hữu đất ở Tây Ban Nha để ngăn chặn công nghiệp hóa.
SỢ CÔNG NGHIỆP
Không có những thay đổi về các thể chế chính trị và quyền lực chính trị tương tự như những thay đổi đã nổi lên ở Anh sau 1688, thì đã có ít cơ hội cho các nước chuyên chế để hưởng lợi từ những đổi mới và những công nghệ mới của Cách mạng Công nghiệp. Ở Tây Ban Nha, chẳng hạn, sự thiếu các quyền tài sản an toàn và sự sa sút kinh tế phổ biến đã có nghĩa rằng người dân đơn giản đã không có khuyến khích để tiến hành các khoản đầu tư và những sự hy sinh cần thiết. Ở Nga và Áo-Hungary, đã không đơn giản là sự sao lãng và sự quản lý tồi của các elite và sự trượt kinh tế quỷ quyệt vào dưới các thể chế khai thác là những cái đã cản trở công nghiệp hóa; thay vào đó, các nhà cai trị đã tích cực ngăn chặn bất cứ nỗ lực nào để đưa các công nghệ này và các khoản đầu tư cơ bản vào cơ sở hạ tầng như đường sắt mà đã có thể hoạt động như các máng dẫn của chúng.
Vào thời gian của Cách mạng Công nghiệp, trong thế kỷ thứ mười tám và đầu thế kỷ thứ mười chín, bản đồ chính trị của châu Âu đã rất khác với bản đồ chính trị hiện nay. Đế chế La Mã Thần thánh, một chiếc chăn chắp vá của hơn bốn trăm chính thể, mà đa số chúng cuối cùng sẽ hợp lại thành nước Đức, đã chiếm hầu hết Trung Âu. Triều đại Habsgurg đã vẫn là một lực lượng chính trị chủ yếu, và đế chế của nó, được biết đến như nhà Habsburg hay Đế chế Áo-Hungary, đã trải ra trên một vùng mênh mông khoảng 250.000 dặm vuông, cho dù nó không còn bao gồm Tây Ban Nha, sau khi nhà Bourbon đã tiếp quản ngai vàng Tây Ban Nha trong năm 1700. Về mặt dân số nó đã là nhà nước lớn thứ ba ở châu Âu và đã chiếm một phần bảy dân số châu Âu. Vào cuối thế kỷ thứ mười tám đất đai Habsburg đã bao gồm, ở phía tây, phần ngày nay là Bỉ, khi đó là Hà Lan thuộc Áo. Phần lớn nhất, tuy vậy, đã là khối đất đai liên tục xung quanh Áo và Hungary, bao gồm Cộng hòa Czech, Slovakia về phía bắc, Slovenia, Croatia, và phần lớn Italia và Serbia ở phía nam. Về phía đông nó đã bao gồm phần lớn của Rumani và Ba Lan ngày nay.
Các nhà buôn ở các lãnh thổ Habsburg đã ít quan trọng hơn nhiều so với ở Anh, và chế độ nông nô đã chiếm ưu thế tại các vùng đất ở Đông Âu. Như chúng ta đã thấy ở chương 4, Ba Lan và Hungary đã ở trung tâm của Chế độ Nông nô thứ Hai của Đông Âu. Nhà Habsburg, không giống nhà Stuart, đã thành công duy trì sự cai trị chuyên chế mạnh. Francis I, người đã cai trị với tư cách hoàng đế cuối cùng của Đế chế La Mã Thần thánh, giữa 1792 và 1806, và sau đó hoàng đế Áo-Hungary cho đến khi ông chết năm 1835, đã là một nhà chuyên chế tột bực. Ông đã không công nhận bất cứ hạn chế nào về quyền lực của mình và, trên hết, ông đã muốn duy trì hiện trạng chính trị. Chiến lược cơ bản của ông đã là chống đối sự thay đổi, bất cứ loại thay đổi nào. Trong năm 1821 ông đã làm rõ điều này trong một bài phát biểu đặc trưng cho các nhà cai trị Habsburg, được trình bày cho các giáo viên tại một trường học ở Laibach, khẳng định, “ta không cần những người hầu, mà cần các công dân tốt, trung thực. Nhiệm vụ của các vị là dạy dỗ những người trẻ thành các công dân như vậy. Ai phục vụ ta phải dạy cái ta ra lệnh cho. Nếu bất cứ ai không thể làm được điều này, hay đến với những ý tưởng mới, người đó có thể đi, hoặc ta sẽ đuổi.”
Nữ hoàng Maria Theresa, người đã trị vì giữa 1740 và 1780, đã thường xuyên trả lời cho các gợi ý về làm thế nào để cải thiện hay thay đổi các thể chế bằng lời nhận xét, “Hãy để mọi thứ như nó là.” Tuy nhiên, bà và con trai bà Joseph II, người đã là hoàng đế giữa 1780 và 1790, đã chịu trách nhiệm về một nỗ lực để xây dựng một nhà nước tập trung hùng mạnh hơn và một hệ thống hành chính hiệu quả hơn. Thế nhưng họ đã làm việc này trong bối cảnh của một hệ thống chính trị với không ràng buộc hạn chế nào lên các hành động của họ và với ít yếu tố của chủ nghĩa đa nguyên. Đã không có quốc hội toàn quốc mà có thể đưa ra ngay chỉ một chút kiểm soát lên quốc vương, chỉ có một hệ thống của các đẳng cấp và các nghị viện địa phương, mà về mặt lịch sử đã có những quyền hạn nào đó liên quan đến đánh thuế và tuyển mộ lính. Thậm chí đã có ít sự kiểm soát hơn lên cái nhà Habsburg Áo-Hungary có thể làm so với các quốc vương Tây Ban Nha, và quyền lực chính trị đã được tập trung hẹp.
Khi chính thể chuyên chế Habsburg được tăng cường trong thế kỷ thứ mười tám, sức mạnh của tất cả các thể chế không-quân chủ đã bị yếu thêm. Khi một phái đoàn công dân từ tỉnh Tyrol ở Áo đưa kiến nghị lên Francis cho một hiến pháp, ông đã trả lời, “Được, các ngươi muốn có một hiến pháp! … Xem này, ta không ngại cái đó. Ta sẽ cho các ngươi một hiến pháp nhưng các ngươi phải biết rằng binh sĩ vâng lời ta, và ta sẽ không bảo các ngươi hai lần nếu ta cần tiền … Trong mọi trường hợp ta khuyên các ngươi nên thận trọng với cái các ngươi sắp nói.” Căn cứ vào câu trả lời này, các nhà lãnh đạo Tyrol đã trả lời, “Nếu bệ hạ nghĩ như vậy, thì tốt hơn là không có hiến pháp nào cả,” mà Francis đáp lại, “Đó cũng là ý của ta.”
Francis đã giải tán Hội đồng Nhà nước mà Maria Theresa đã sử dụng như một diễn đàn cho việc tham vấn với các bộ trưởng của bà. Từ đó trở đi đã không có sự tham vấn nào hay sự thảo luận nào về các quyết định của Quốc vương. Francis đã tạo ra một nhà nước cảnh sát và đã kiểm duyệt một cách tàn nhẫn bất cứ thứ gì mà đã có thể được coi như cấp tiến ôn hòa. Triết lý của ông về cai trị đã được mô tả đặc trưng bởi Bá tước Hartig, một phụ tá lâu đời của ông, như “sự duy trì không giảm sút quyền của quốc vương, và từ chối mọi đòi hỏi từ phía nhân dân cho một sự tham gia vào quyền đó.” Ông đã được giúp đỡ trong tất cả chuyện này bởi Hoàng thân von Metternich, được chỉ định làm bộ trưởng ngoại giao trong năm 1809. Quyền lực và ảnh hưởng của Metternich thực sự tồn tại lâu hơn quyền lực và ảnh hưởng của Francis, và ông vẫn đã là bộ trưởng ngoại giao gần bốn mươi năm.
Đứng ở trung tâm của các thể chế kinh tế Habsburg đã là trật tự phong kiến và chế độ nông nô. Khi di chuyển sang phía đông bên trong đế chế, chủ nghĩa phong kiến trở nên mãnh liệt hơn, một sự phản ánh về độ dốc phổ biến hơn trong các thể chế kinh tế chúng ta đã thấy ở chương 4, khi di chuyển từ Tây sang Đông Âu. Tính linh động lao động đã hết sức hạn chế, và sự di cư đã là bất hợp pháp. Khi nhà từ thiện Anh Robert Owen thử thuyết phục chính phủ Áo để chấp nhận những cải cách xã hội nào đó nhằm cải thiện hoàn cảnh của những người nghèo, một trong các trợ lý của Metternich, Friedrich von Gentz, đã trả lời, “Chúng tôi không hề mong muốn rằng các đám đông to lớn sẽ trở nên khá giả và độc lập … Khác đi thì làm sao chúng tôi có thể cai trị họ?”
Thêm vào chế độ nông nô, mà đã ngăn chặn hoàn toàn sự nổi lên của một thị trường lao động và xóa bỏ các khuyến khích hay các sáng kiến kinh tế từ quần chúng dân cư nông thôn, chính thể chuyên chế Habsburg đã phát đạt nhờ các độc quyền và những hạn chế khác về thương mại. Nền kinh tế đô thị bị áp đảo bởi các phường hội, mà đã hạn chế sự tham gia vào các nghề. Cho đến 1775 đã có thuế quan nội địa bên trong bản thân nước Áo, và ở Hungary cho đến năm 1784. Thuế quan đã rất cao đối với hàng hóa nhập khẩu, với nhiều lệnh cấm rành mạch về các hàng hóa nhập và xuất khẩu.
Sự kiềm chế các thị trường và sự tạo ra các thể chế kinh tế khai thác tất nhiên là đặc trưng hoàn toàn của chính thể chuyên chế, nhưng Francis đã đi xa hơn. Đã không đơn giản là các thể chế kinh tế khai thác đã xóa bỏ các khuyến khích cho các cá nhân để đổi mới hay chấp nhận công nghệ mới. Chúng ta đã thấy ở chương 2, ở Vương quốc Kongo các nỗ lực để thúc đẩy việc sử dụng cày đã thất bại như thế nào bởi vì người dân đã thiếu bất cứ khuyến khích nào, căn cứ vào bản chất khai thác của các thể chế kinh tế. Nhà vua Kongo đã nhận ra rằng nếu ông có thể khiến nhân dân sử dụng cày, thì năng suất nông nghiệp sẽ cao hơn, tạo ra nhiều của cải hơn, mà ông đã có thể hưởng lợi từ đó. Đấy là một khuyến khích tiềm năng cho tất cả các chính phủ, ngay cả cho các chính phủ chuyên chế. Vấn đề ở Kongo đã là, nhân dân thì lại đã hiểu rằng bất cứ thứ gì họ sản xuất ra đều bị tịch thu bởi một quốc vương chuyên chế, và vì thế họ đã không có khuyến khích nào để đầu tư hay sử dụng công nghệ tốt hơn. Trong các vùng đất Habsburg, Francis đã không khuyến khích các công dân của ông chấp nhận làm theo công nghệ tốt hơn; ngược lại, ông thực sự chống lại nó, và đã ngăn chặn sự phổ biến các công nghệ mà khác đi thì nhân dân đã có thể sẵn sàng chấp nhận với các thể chế kinh tế hiện tồn.
Sự chống đối đổi mới đã được thể hiện theo hai cách. Thứ nhất, Francis I đã chống sự phát triển công nghiệp. Công nghiệp dẫn đến các nhà máy, và các nhà máy có thể tập trung những người lao động nghèo trong thành phố, đặc biệt ở thủ đô Vienna. Những người lao động đó rồi có thể trở thành những người ủng hộ các đối thủ của chính thể chuyên chế. Các chính sách của ông đã nhằm siết chặt các elite truyền thống và hiện trạng chính trị và kinh tế vào đúng chỗ. Ông đã muốn giữ xã hội chủ yếu là nông nghiệp. Cách tốt nhất để làm việc này, Francis tin, đã là cản việc xây dựng các nhà máy ngay từ đầu. Việc này ông đã trực tiếp làm – thí dụ, trong năm 1802, cấm việc tạo ra các nhà máy mới ở Vienna. Thay cho việc khuyến khích nhập khẩu và sự chấp nhận dùng máy móc mới, ông đã cấm cho đến tận 1811.
Thứ hai, ông đã chống lại việc xây dựng đường sắt, một trong những công nghệ mới then chốt mà đã đến cùng Cách mạng Công nghiệp. Khi một kế hoạch để xây dựng một đường sắt phía bắc được đệ trình lên Francis, ông đã trả lời, “Không, không, ta không dính líu gì với nó, e rằng cách mạng có thể lẻn vào đất nước này.”
Vì chính phủ đã không nhân nhượng cho việc xây dựng một đường sắt hơi nước, đường sắt đầu tiên được xây dựng trong đế chế đã phải dùng các toa xe ngựa kéo. Tuyến chạy giữa thành phố Linz, bên sông Danube, và thành phố Budweise xứ Bohem, bên sông Moldau, đã được xây dựng với độ dốc và các góc, mà đã có nghĩa rằng không thể để chuyển đổi sang đầu máy hơi nước. Cho nên nó đã tiếp tục dùng sức ngựa cho đến các năm 1860. Tiềm năng cho sự phát triển đường sắt trong đế chế đã được cảm nhận từ sớm bởi nhà ngân hàng Salomon Rothschild, đại diện ở Vienna của gia đình lớn kinh doanh ngân hàng. Anh của Salomon, Nathan, người đóng ở London, đã rất bị ấn tượng bởi động cơ “Tên Lửa” của George Stephenson và tiềm năng cho đầu tàu hơi nước. Ông đã liên hệ với em mình để khuyến khích anh ta tìm kiếm cơ hội để phát triển đường sắt ở Áo, vì ông đã tin rằng gia đình có thể kiếm được lợi nhuận lớn bằng cách tài trợ cho sự phát triển đường sắt. Nathan đã đồng ý, nhưng sơ đồ đã chẳng đi đến đâu, bởi vì Hoàng đế Francis lại đơn giản đã nói không.
Sự phản đối công nghiệp và máy hơi nước đã xuất phát từ nỗi lo của Francis về sự phá hủy sáng tạo mà đi cùng với sự phát triển của một nền kinh tế hiện đại. Các ưu tiên chính của ông đã là đảm bảo sự ổn định của các thể chế khai thác mà trên đó ông cai trị và bảo vệ các lợi thế của các elite truyền thống những người đã ủng hộ ông. Không chỉ là, đã có ít để được lợi thêm từ công nghiệp hóa, mà có thể làm xói mòn trật tự phong kiến bằng cách thu hút lao động từ nông thôn ra thành thị, mà Francis cũng đã nhận ra sự đe dọa mà những thay đổi kinh tế lớn có thể đặt ra cho quyền lực chính trị của ông. Như một kết quả, ông đã chặn công nghiệp và tiến bộ kinh tế, nhốt đất nước trong tình trạng lạc hậu kinh tế, mà đã thể hiện mình theo nhiều cách. Thí dụ, mãi đến 1883, khi 90 phần trăm của sản lượng sắt thế giới đã được sản xuất bằng sử dụng than đá, thì hơn nửa sản lượng trong các lãnh thổ Habsburg vẫn sử dụng than củi kém hiệu quả hơn nhiều. Tương tự, cho đến tận Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, khi đế chế sụp đổ, việc dệt vải đã chẳng bao giờ được cơ giới hóa hoàn toàn mà vẫn được tiến hành bằng tay.
Áo-Hungary đã không đơn độc trong nỗi sợ công nghiệp. Xa hơn ở phía đông, Nga đã có một tập hợp chuyên chế ngang thế của các thể chế chính trị, được rèn bởi Peter Đại Đế, như chúng ta đã thấy trước đây trong chương này. Giống Áo-Hungary, các thể chế kinh tế của Nga đã hết sức khai thác, dựa trên chế độ nông nô, giữ ít nhất một nửa dân cư gắn với đất. Các nông nô đã phải làm việc không công ba ngày một tuần trên đất của chủ nô. Họ đã không thể di chuyển, họ đã thiếu quyền tự do nghề nghiệp, và họ đã có thể bị bán tùy ý của chủ nô của họ và chủ nô khác. Nhà triết học cấp tiến Peter Kropotkin, một trong các nhà sáng lập của chủ nghĩa vô chính phủ, đã để lại sự mô tả sống động về cách chế độ nông nô đã hoạt động dưới triều của Sa hoàng Nicolas I, người đã cai trị Nga từ 1825 đến 1855. Ông đã nhớ lại thời thơ ấu của mình
những câu chuyện về những người đàn ông và đàn bà bị lôi khỏi gia đình và làng xóm của họ và bị bán, bị thua cờ bạc, hay bị đổi lấy một cặp chó săn, bị đưa đi nơi hẻo lánh nào đó của nước Nga … về những đứa trẻ bị giằng khỏi cha mẹ chúng và bị bán cho các ông chủ tàn ác hay phóng đãng; về sự đánh bằng roi “trong chuồng ngựa,” mà xảy ra hàng ngày với sự tàn ác không ai để ý tới; về một cô gái người đã tìm thấy sự cứu rỗi duy nhất của cô trong việc để mình chết đuối; về một người già tóc đã hoa râm vì đã phục vụ chủ mình từ lâu và cuối cùng đã treo cổ mình dưới cửa sổ của ông chủ; và về các cuộc nổi loạn của nông nô, mà đã bị đàn áp bởi các tướng của Nicholas I bằng cách đánh đòn cho đến chết mỗi người thứ mười hay thứ năm bị nhấc ra khỏi hàng, và bằng cách tàn phá làng mạc … Về sự nghèo khó mà tôi đã thấy trong các chuyến đi của chúng tôi ở một số làng, đặc biệt ở các làng thuộc về gia đình đế chế, không có lời nào là đủ để mô tả sự khốn khổ cho các bạn đọc chưa từng thấy nó.
Chính xác như ở Áo-Hungary, chính thể chuyên chế đã không chỉ tạo ra một tập hợp các thể chế kinh tế cản trở sự thịnh vượng của xã hội. Đã có một sự sợ tương tự về sự phá hủy sáng tạo và một nỗi sợ công nghiệp và đường sắt. Tại tâm điểm của chuyện này dưới thời triều Nicholas I đã là Bá tước Egor Kankrin, người đã phục vụ với tư cách bộ trưởng tài chính giữa 1823 và 1844 và đã đóng vai trò then chốt trong chống lại những thay đổi xã hội cần thiết cho sự thúc đẩy thịnh vượng kinh tế.
Các chính sách của Kankrin đã nhắm tới việc củng cổ các trụ cột chính trị truyển thống của chế độ, đặc biệt giới quý tộc sở hữu đất, và giữ cho xã hội là xã hội nông thôn và nông nghiệp. Vào lúc trở thành bộ trưởng tài chính, Kankrin đã nhanh chóng chống lại và đảo ngược một đề xuất bởi bộ trưởng tài chính trước, Gurev, để phát triển một Ngân hàng Thương mại do Chính phủ sở hữu để cho công nghiệp vay tiền. Thay vào đó, Kankrin đã mở lại Ngân hàng Cho vay Nhà nước mà đã bị đóng cửa trong các cuộc Chiến tranh Napoleon. Ngân hàng này được tạo ra ban đầu để cho các địa chủ lớn vay với lãi suất được trợ cấp, một chính sách Kankrin chấp thuận. Các khoản vay đòi hỏi những người muốn vay phải đưa các nông nô như “vật đảm bảo,” hay tài sản thế chấp, cho nên chỉ có các địa chủ phong kiến mới có thể kiếm được các khoản vay như vậy. Để cấp tài chính cho Ngân hàng Cho vay Nhà nước, Kankrin đã chuyển các tài sản từ Ngân hàng Thương mại, giết hai con chim bằng một hòn đá: bây giờ có ít tiền để lại cho công nghiệp.
Thái độ của Kankrin đã bị định hình một cách nhìn thấy trước bởi nỗi sợ rằng sự thay đổi kinh tế sẽ kéo theo sự thay đổi chính trị, và các nỗi sợ của Sa hoàng Nicholas cũng đã thế. Sự lên nắm quyền của Nichlas trong tháng Mười hai năm 1825 đã gần như bị hủy bởi một âm mưu đảo chính bởi các sĩ quan quân đội, cái được gọi là những người Tháng Mười Hai, những người đã có một chương trình cấp tiến về thay đổi xã hội. Nicholas đã viết cho Đại Công tước Mikhail: “Cách mạng ở trước ngưỡng cửa nước Nga, nhưng tôi thề rằng nó sẽ không xâm nhập vào đất nước này trong khi còn hơi thở trong thân thể tôi.”
Nicholas đã sợ những thay đổi xã hội mà việc tạo ra một nền kinh tế hiện đại sẽ mang lại. Như ông đã diễn đạt trong một bài phát biểu ông đã nói cho một cuộc gặp mặt của các nhà chế tạo tại một triển lãm công nghiệp ở Moscow:
cả nhà nước và các nhà chế tạo phải hướng sự chú ý vào một chủ đề, mà không có nó thì chính các nhà máy sẽ trở thành một tai họa hơn là một phước lành; đấy là sự cẩn trọng về những người lao động tăng lên về số lượng hàng năm. Họ cần sự giám sát mạnh mẽ và gia trưởng về đạo đức của họ; không có nó thì khối quần chúng này của nhân dân sẽ dần dần bị đồi bại và cuối cùng sẽ biến thành giai cấp cũng cùng khổ ngang như như nguy hiểm cho các ông chủ của họ.
Hệt như với Francis I, Nicholas đã sợ rằng sự phá hủy sáng tạo được tháo ra bởi một nền kinh tế công nghiệp hiện đại sẽ làm xói mòn hiện trạng chính trị ở Nga. Được Nicholas thúc giục, Kankrin đã đưa ra các bước cụ thể để làm chậm tiềm năng cho công nghiệp. Ông đã cấm nhiều cuộc triển lãm công nghiệp, mà trước đó đã được tổ chức định kỳ để giới thiệu công nghệ mới và tạo thuận lợi cho việc thích nghi công nghệ.
Trong năm 1848 châu Âu bị rung chuyển bởi một loạt các cuộc cách mạng nổ ra. Đáp lại, A. A, Zakrevskii, thống đốc quân sự của Moscow, người chịu trách nhiệm duy trì trật tự công, đã viết cho Nicholas: “Để duy trì sự bình yên và thịnh vượng, mà hiện thời chỉ Nga được hưởng, chính phủ không được cho phép sự tụ tập của những người vô gia cư và những kẻ phóng đãng, những người sẽ dễ dàng tham gia mọi phong trào, phá hoại sự bình yên xã hội và sự yên bình riêng.” Lời khuyên của ông đã được đưa ra trước các bộ trưởng của Nicholas, và trong năm 1849 một luật mới đã được ban hành đặt ra những hạn chế nghiêm ngặt về số nhà máy có thể được mở ở bất cứ phần nào của Moscow. Nó đặc biệt đã cấm mở bất cứ xưởng kéo sợi bông và len mới nào và các xưởng đúc sắt. Các ngành khác, như dệt và nhuộm, đã phải kiến nghị lên thống đốc quân sự nếu họ muốn mở các nhà máy mới. Cuối cùng kéo sợi bông đã bị cấm một cách tường minh. Luật đã có ý định ngừng bất cứ sự tập trung thêm nào của các công nhân có tiềm năng nổi loạn trong thành phố.
Sự chống đối đường sắt đi cùng với sự chống đối công nghiệp, chính xác như ở Áo-Hungary. Trước 1842 đã chỉ có một tuyến đường sắt ở Nga. Đấy là Đường sắt Tsarskoe Selo, mà đã chạy mười bảy dặm từ Saint Peterburg đến các dinh thự đế chế ở Tsarskoe Selo và Pavlosk. Hệt như Kankrin đã chống lại công nghiệp, ông đã không thấy lý do nào để đẩy mạnh đường sắt, mà ông đã cho rằng sẽ mang lại một sự linh động nguy hiểm về mặt xã hội, lưu ý rằng, “đường sắt không luôn luôn là kết quả từ sự cần thiết tự nhiên, mà nhiều hơn là một đối tượng của nhu cầu nhân tạo hay sự xa hoa. Chúng khuyến khích sự đi lại không cần thiết từ nơi này sang nơi khác, mà hoàn toàn là điển hình của thời đại chúng ta.”
Kankrin đã bác bỏ rất nhiều cuộc bỏ thầu để xây dựng đường sắt, và chỉ đến 1851 mới có một tuyến được xây dựng nối Moscow và Saint Peterburg. Chính sách của Kankrin được tiếp tục bởi Bá tước Kleinmichel, người được cử đứng đầu cơ quan hành chính quản lý chính về Giao Thông và Công Thự. Tổ chức này đã trở thành trọng tài chính của việc xây dựng đường sắt, và Kleinmichel đã sử dụng nó như một cái bệ để làm nản lòng việc xây dựng chúng. Sau 1849 ông thậm chí đã còn dùng quyền lực của mình để kiểm duyệt sự thảo luận về phát triển đường sắt trên báo chí.
Bản đồ 13 cho thấy các hệ quả của logic này. Trong khi Vương quốc Anh và hầu hết Tây bắc châu Âu đã chằng chịt đường sắt trong năm 1870, rất ít đã thâm nhập vào lãnh thổ mênh mông của Nga. Chính sách chống đường sắt đã chỉ đảo ngược sau khi Nga bị các lực lượng Anh, Pháp, và Ottoman đánh bại một cách dứt khoát trong Chiến tranh Crime, 1853-1856, khi sự lạc hậu của mạng lưới giao thông của nó đã được hiểu là cái gây khó khăn trở ngại cho an ninh của Nga. Cũng đã có ít sự phát triển đường sắt ở Áo-Hungary, bên ngoài Áo và phần phía Tây của đế chế, mặc dù các cuộc Cách mạng 1848 đã mang lại những thay đổi cho các lãnh thổ này, đặc biệt là sự xóa bỏ chế độ nông nô.
KHÔNG TÀU BÈ NÀO ĐƯỢC PHÉP
Chính thể chuyên chế đã ngự trị không chỉ ở phần lớn châu Âu mà cả ở châu Á nữa, và một cách tương tự đã ngăn cản sự công nghiệp hóa trong bước ngoặt do Cách mạng Công nghiệp tạo ra. Các triều đại Minh và Thanh ở Trung Quốc và chính thể chuyên chế của Đế chế Ottoman minh họa điều này. Dưới triều Tống, giữa 960 và 1279, Trung Quốc đã dẫn đầu thế giới về nhiều đổi mới công nghệ. Những người Trung Quốc đã sáng chế ra đồng hồ, la bàn, thuốc súng, giấy và tiền giấy, đồ sứ, và lò nung thổi để chế tạo gang trước khi châu Âu đã sáng chế ra. Họ đã phát triển một cách độc lập guồng xe sợi và sức nước ít nhiều cùng thời gian mà những công nghệ này nổi lên ở đầu bên kia của đại lục Á-Âu. Kết quả là, trong năm 1500 mức sống ở Trung Quốc ít nhất cũng cao như ở châu Âu. Trong nhiều thế kỷ Trung Quốc cũng đã có một nhà nước tập trung với một bộ máy công vụ được tuyển theo công trạng.
Thế nhưng Trung Quốc đã là chuyên chế, và sự tăng trưởng dưới triều Tống đã là sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác. Đã không có sự đại diện chính trị cho các nhóm khác với nền quân chủ trong xã hội, đã chẳng có gì giống với Quốc hội hay Cortes cả. Các nhà buôn đã luôn luôn có địa vị bấp bênh ở Trung Quốc, và những sáng chế vĩ đại của nhà Tống đã không được kích thích bởi những khuyến khích thị trường mà đã được sinh ra dưới sự bảo trợ, thậm chí dưới các mệnh lệnh của chính phủ. Ít trong số này được thương mại hóa. Sự nắm chặt của nhà nước được siết chặt trong các triều Minh và Thanh mà đã tiếp sau nhà Tống. Tại gốc rễ của tất cả việc này là logic thông thường của các thể chế khai thác. Như hầu hết các nhà cai trị đứng đầu các thể chế khai thác, các hoàng đế chuyên chế của Trung Quốc đã chống sự thay đổi, tìm kiếm sự ổn định, và về bản chất sợ sự phá hủy sáng tạo.
Điều này được minh họa tốt nhất bằng lịch sử của thương mại quốc tế. Như chúng ta đã thấy việc phát hiện ra châu Mỹ và cách thương mại quốc tế được tổ chức đã đóng một vai trò then chốt trong các xung đột chính trị và những thay đổi thể chế của châu Âu hiện đại lúc ban đầu. Tại Trung Quốc, trong khi các nhà buôn đã dính líu thông thường vào buôn bán trong nước, còn nhà nước đã độc quyền buôn bán với nước ngoài. Khi nhà Minh lên nắm quyền năm 1368, Hoàng đế Hồng Vũ người đã cai trị đầu tiên, trong ba mươi năm. Hồng Vũ đã lo rằng thương mại quốc tế sẽ gây bất ổn chính trị và xã hội và ông đã cho phép thương mại quốc tế xảy ra chỉ nếu nó được tổ chức bởi chính phủ và chỉ nếu nó dính dáng đến triều cống, chứ không phải hoạt động thương mại. Hồng Vũ thậm chí đã hành quyết hàng trăm người bị kết án thử biến các đợt công cán triều cống thành các vụ kinh doanh thương mại. Giữa 1377 và 1397 không đợt công cán triều cống bằng đường biển nào được cho phép. Ông đã cấm các cá nhân buôn bán với người nước ngoài và đã không cho phép người Trung Quốc đi thuyền ra nước ngoài.
Trong năm 1402, Hoàng đế Vĩnh Lạc lên ngôi và đã khởi xướng một giai đoạn nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc bằng cách khởi động ngoại thương do nhà nước tài trợ trên quy mô lớn. Vĩnh Lạc đã tài trợ Đô đốc Trịnh Hòa để tiến hành sáu đợt công cán khổng lồ đến Đông Nam và Nam Á, Arabia, và châu Phi. Những người Trung Quốc đã biết về các địa điểm này từ một lịch sử lâu đời về các mối quan hệ thương mại, nhưng đã chẳng có gì từng xảy ra trước đây với quy mô này. Đoàn thuyền đầu tiên đã gồm 27.800 người và 62 thuyền kho báu lớn, được hộ tống bởi 190 thuyền nhỏ hơn, kể cả các thuyền dành riêng cho việc chở nước ngọt, các thuyền khác cho việc cung ứng, và các thuyền khác nữa cho binh lính. Thế nhưng Hoàng đế Vĩnh Lạc đã tạm ngưng sau chuyến thứ sáu trong năm 1422. Việc ngừng được biến thành lâu dài bởi người kế vị ông, Hồng Hi, người đã cai trị từ 1424 đến 1425. Cái chết sớm của Hồng Hi đã đưa Hoàng đế Tuyên Đức lên ngôi, người đầu tiên đã cho phép Trịnh Hòa một chuyến cuối cùng, trong năm 1433. Nhưng sau chuyến này, tất cả ngoại thương đã bị cấm. Vào năm 1436 việc xây dựng tàu thuyền đi biển đã thậm chí bị coi là bất hợp pháp. Việc cấm ngoại thương đã không được dỡ bỏ cho đến 1567.
Các sự kiện này, mặc dù chỉ là đỉnh nổi của tảng băng khai thác mà đã ngăn chặn nhiều hoạt động kinh tế được cho là có tiềm năng gây bất ổn định, đã có một tác động cơ bản lên sự phát triển kinh tế Trung Quốc. Đúng vào lúc khi thương mại quốc tế và sự khám phá ra châu Mỹ đã làm biến đổi các thể chế của nước Anh, Trung Quốc đã cô lập mình khỏi bước ngoặt này và quay theo hướng nội. Việc quay hướng nội này đã không chấm dứt trong năm 1567. Triều đình nhà Minh đã bị những người Jurchen, người Mãn châu bên trong châu Á, tràn ngập chiếm, những người đã tạo ra triều đại nhà Thanh. Một thời kỳ bất ổn chính trị gay gắt sau đó đã kéo theo. Những người Thanh đã tiến hành chiếm đoạt hàng loạt bất động sản và tài sản. Trong các năm 1690, Đường Chân, một học giả Trung Quốc đã về hưu, một nhà buôn thất bại, đã viết:
Hơn năm mươi năm đã trôi qua kể từ khi thành lập triều đại nhà Thanh, và đế chế đã nghèo dần từng ngày. Các nông dân cơ cực, các thợ thủ công cơ cực, các nhà buôn cơ cực, và các quan chức cũng cơ cực. Ngũ cốc rẻ, thế nhưng khó để ăn no. Quần áo rẻ, thế nhưng khó để che thân. Thuyền chất hàng hóa đi từ nơi họp chợ này đến nơi kia, nhưng hàng phải bán lỗ. Các quan chức lúc rời vị trí của mình mới phát hiện ra không có số tiền cần thiết nào để hỗ trợ gia đình họ. Quả thực cả bốn nghề đều bị bần cùng hóa.
Trong năm 1661 hoàng đế Khang Hy đã ra lệnh rằng tất cả người dân sống ở bờ biển từ Việt Nam đến Chiết Giang – về cơ bản toàn bộ bờ biển phía nam, một thời là phần tích cực nhất về mặt thương mại của Trung Quốc – phải chuyển vào bên trong đất liền mười bảy dặm. Bờ biển được tuần tra bởi binh lính để thực thi biện pháp đó, và cho đến 1693 đã có lệnh cấm tàu bè ở mọi nơi trên bờ biển. Sự cấm này đã được áp đặt định kỳ trong thế kỷ thứ mười tám, trên thực tế làm còi cọc sự nổi lên của thương mại quốc tế của Trung Quốc. Mặc dù một số người đã đầu tư, ít người đã sẵn sàng đầu tư khi hoàng đế có thể đột ngột thay đổi ý của ông và cấm thương mại, làm cho các khoản đầu tư vào tàu thuyền, trang thiết bị, và các quan hệ thương mại thành vô dụng hay thậm chí tồi hơn.
Lập luận của các nhà nước Minh và Thanh cho việc chống đối ngoại thương bây giờ là quen thuộc: nỗi sợ sự phá hủy sáng tạo. Mục đích chủ yếu của các nhà lãnh đạo là ổn định chính trị. Thương mại quốc tế đã có tiềm năng gây bất ổn định vì các nhà buôn trở nên giàu có và mạnh bạo hơn, như họ đã thế ở nước Anh trong thời kỳ mở rộng thương mại Đại Tây Dương. Đấy đã không chỉ là cái mà các nhà cai trị đã tin trong các triều đại Minh và Thanh, mà cũng đã là thái độ của các nhà cai trị của triều Tống, cho dù họ đã sẵn sàng tài trợ cho những đổi mới công nghệ và cho phép quyền tự do thương mại lớn hơn, với điều kiện rằng điều này dưới sự kiểm soát của họ. Tình hình trở nên tồi tệ hơn dưới các triều Minh và Thanh vì sự kiểm soát của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế được siết chặt và ngoại thương bị cấm. Chắc chắn đã có các thị trường ở Trung Quốc thời Minh và thời Thanh, và chính phủ đã đánh thuế nền kinh tế nội địa khá nhẹ. Tuy vậy, nó đã làm ít để hỗ trợ sự đổi mới sáng tạo, và nó đã đánh đổi sự phát triển buôn bán hay sự thịnh vượng công nghiệp lấy sự ổn định chính trị. Hệ quả của tất cả sự kiểm soát chuyên chế này đối với nền kinh tế đã là có thể tiên đoán được: nền kinh tế Trung Quốc đã trì trệ suốt thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi, trong khi các nền kinh tế khác đang công nghiệp hóa. Vào lúc Mao dựng lên chế độ cộng sản của ông năm 1949, Trung Quốc đã trở thành một trong những nước nghèo nhất thế giới.
CHÍNH THỂ CHUYÊN CHẾ CỦA PRESTER JOHN
Chính thể chuyên chế với tư cách một tập hợp của các thể chế chính trị và các hệ quả kinh tế nảy sinh từ nó đã không hạn chế ở châu Âu và châu Á. Nó đã hiện diện ở châu Phi, chẳng hạn, với Vương quốc Kongo, như chúng ta đã thấy ở chương 2. Một thí dụ thậm chí còn kéo dài hơn về chính thể chuyên chế Phi châu là Ethiopia, hay Abyssinia, mà gốc rễ của nó chúng ta đã bắt gặp ở chương 6, khi chúng ta thảo luận về sự nổi lên của chủ nghĩa phong kiến sau sự suy sụp của Aksum. Chính thể chuyên chế Abyssinia thậm chí đã sống lâu hơn chính thể chuyên chế Âu châu, bởi vì nó đã đối mặt với những thách thức rất khác trong các bước ngoặt.
Sau khi vua Ezana xứ Aksum cải đạo sang Kitô giáo, những người Ethiopia vẫn theo Kitô giáo, và vào thế kỷ thứ mười bốn họ đã trở thành tiêu điểm của huyền thoại về nhà Vua Prester John. Prester John đã là một nhà vua theo Kitô giáo người đã bị cắt rời khỏi châu Âu bởi sự trỗi dậy của Hồi giáo ở Trung Đông. Ban đầu vương quốc của ông được cho là ở Ấn Độ. Tuy vậy, khi sự hiểu biết Âu châu về Ấn Độ tăng lên, đã hóa ra là không phải vậy. Vua Ethiopia, vì ông theo Kitô giáo, nên sau đó đã trở thành một mục tiêu tự nhiên cho huyền thoại này. Các vua của Ethiopia thực ra đã cật lực thử tạo các liên minh với các quốc vương Âu châu để chống lại các cuộc xâm lấn của người Arab, gửi các phái đoàn ngoại giao đến châu Âu chí ít từ 1300 trở đi, thậm chí thuyết phục vua Bồ Đào Nha gửi binh lính đến.
Những người lính này, cùng với các nhà ngoại giao, các giáo sĩ dòng Jesuit, và các khách lữ hành muốn gặp Prester John, đã để lại nhiều tường thuật về Ethiopia. Một số lý thú nhất từ quan điểm kinh tế học là các tường thuật của Francisco Álvares, một cha tuyên úy đi cùng với một phái đoàn ngoại giao Bồ Đào Nha, người đã ở Ethiopia từ 1520 đến 1527. Ngoài ra, có các tường thuật bởi giáo sĩ dòng Jesuit Manoel de Almeida, người đã sống ở Ethiopia từ 1624, và bởi John Bruce, một khách lữ hành người đã ở đó giữa 1768 và 1773. Các bài viết của những người này cho một tường thuật phong phú về các thể chế chính trị và kinh tế vào thời đó ở Ethiopia và không để lại nghi ngờ nào rằng Ethiopia đã là một mẫu hoàn hảo của chính thể chuyên chế. Đã không có các thể chế đa nguyên thuộc bất cứ loại nào, cũng đã chẳng có sự kiểm soát và ràng buộc lên quyền lực của hoàng đế, người đòi quyền để cai trị trên cơ sở được cho là hậu duệ từ đức Vua Solomon và Hoàng hậu Sheba nổi tiếng.
Hệ quả của chính thể chuyên chế đã là sự hết sức không an toàn của các quyền tài sản bị dẫn dắt bởi chiến lược chính trị của hoàng đế. Bruce, chẳng hạn, đã lưu ý rằng
tất cả đất đai đều của nhà vua; ngài cho ai đó ngài thích trong lúc vui, và lấy lại khi ngài muốn. Và ngay khi ông chết toàn bộ đất đai trong vương quốc thuộc Quốc vương tùy ý sử dụng; và không chỉ có thế, với cái chết của chủ sở hữu hiện hành, các tài sản của người đó dẫu đã được hưởng lâu đến đâu, đều trở về nhà vua, chứ không thuộc về con trai cả.
Álvares đã cho rằng có nhiều “trái cây và sự trồng trọt” hơn rất nhiều “nếu những người vĩ đại đã không đối xử tồi với nhân dân”. Tường thuật của Almeida về xã hội đã hoạt động thế nào là rất nhất quán. Ông đã nhận xét:
Hết sức thông thường đối với hoàng đế để trao đổi, thay đổi và lấy đi đất mà mỗi người nắm giữ mỗi hai hay ba năm, đôi khi mỗi năm và thậm chí nhiều lần trong một năm, điều đó không gây ra sự ngạc nhiên nào. Thường một người cày ruộng, người khác gieo hạt và người khác nữa thu hoạch. Vì thế chẳng ai chăm lo cho đất mà họ được hưởng; thậm chí chẳng có ai trồng cây bởi vì anh ta biết rằng người trồng hiếm khi hái quả. Đối với nhà vua, tuy vậy, là hữu ích rằng họ phải hết sức lệ thuộc vào ông.
Những mô tả này gợi ý những sự giống nhau chính giữa các cấu trúc chính trị và kinh tế của Ethiopia và cấu trúc của các chính thể chuyên chế Âu châu, mặc dù chúng cũng làm rõ là, chính thể chuyên chế là gay gắt hơn ở Ethiopia, và các thể chế kinh tế thậm chí còn khai thác hơn. Ngoài ra, như chúng ta đã nhấn mạnh trong chương 6, Ethiopia đã không chịu cùng bước ngoặt mà đã giúp làm xói mòn chế độ chuyên chế ở nước Anh. Nó đã bị cô lập khỏi nhiều quá trình mà đã định hình thế giới hiện đại. Cho dù điều này có không phải vậy, cường độ của chính thể chuyên chế của nó có lẽ đã dẫn chính thể chuyên chế củng cố thậm chí hơn nữa. Thí dụ, như ở Tây Ban Nha, thương mại quốc tế ở Ethiopia, kể cả việc buôn bán nô lệ béo bở, đã được quốc vương kiểm soát. Ethiopia đã không hoàn toàn cô độc: những người Âu châu đã tìm kiếm Prester John, và nó đã phải chiến đấu trong các cuộc chiến tranh chống lại các chính thể Islamic bao quanh. Tuy nhiên, sử gia Edward Gibbon đã nhận xét với sự chính xác nào đó rằng “bị bao quanh từ mọi phía bởi các kẻ thù tôn giáo của họ, những người Ethiopia đã ngủ gần một ngàn năm, quên thế giới bởi những người mà họ đã quên.”
Khi sự thuộc địa hóa châu Phi của những người Âu châu bắt đầu trong thế kỷ thứ mười chín, Ethiopia đã là một vương quốc độc lập dưới thời Ras (Công tước) Kassa, người đã được phong làm Hoàng đế Tewodros II trong năm 1855. Tewodros đã bắt đầu một công cuộc hiện đại hóa nhà nước, tạo ra bộ máy hành chính quan liêu và tư pháp tập trung hơn, và một quân đội có khả năng kiểm soát đất nước và có lẽ chiến đấu chống những người Âu châu. Ông đã đặt ra các thống đốc quân sự, chịu trách nhiệm thu thuế và chuyển cho ông, phụ trách tất cả các tỉnh. Các cuộc thương thuyết của ông với các cường quốc Âu châu đã khó khăn, và trong lúc điên tiết ông đã tống giam lãnh sự Anh. Trong năm 1868 những người Anh đã cử một lực lượng viễn chinh, mà đã cướp phá thủ đô của ông. Tewodros đã tự vẫn.
Dẫu sao, chính phủ được xây dựng lại của Tewodros đã xoay xở để có được một trong những thắng lợi lớn chống thực dân của thế kỷ thứ mười chín, chống lại những người Italy. Trong năm 1889 ngai vàng được chuyển cho Menelik II, người ngay lập tức phải đối mặt với sự quan tâm của Italy để lập một thuộc địa ở đó. Năm 1885 thủ tướng Đức Bismarck đã triệu tập một hội nghị tại Berlin nơi các cường quốc Âu châu đã ngấm ngầm dự tính “Tranh giành châu Phi” – tức là, họ đã quyết định chia châu Phi như thế nào thành các lĩnh vực lợi ích khác nhau. Tại hội nghị đó Italy đã đạt được các quyền của mình đối với các thuộc địa ở Eritrea, dọc bờ biển Ethiopia và Somalia. Ethiopia, mặc dù đã không được đại diện tại hội nghị, bằng cách nào đó đã tìm được cách để sống sót nguyên vẹn. Nhưng những người Italy vẫn giữ các ý đồ, và trong năm 1896 họ tiến quân về phía nam từ Eritrea. Sự đáp trả của Menelik đã giống như sự đáp trả của một nhà vua Âu châu thời trung cổ; đông đã lập ra một quân đội bằng cách sai các quý tộc gọi những người được vũ trang của họ nhập ngũ. Cách tiếp cận này đã không thể đưa một quân đội ra chiến trường trong thời gian dài, nhưng đã có thể huy động một đội quân khổng lồ lại với nhau trong thời gian ngắn. Thời gian ngắn này đã vừa đủ để đánh bại những người Italy, mà mười lăm ngàn quân của họ bị áp đảo tràn ngập bởi một trăm ngàn quân của Menelik trong Trận Adowa năm 1896. Đó đã là thất bại quân sự nghiêm trọng nhất mà một nước tiền thuộc địa Phi châu đã có thể giáng xuống một cường quốc Âu châu, và đã giữ được sự độc lập của Ethiopia thêm bốn mươi năm nữa.
Hoàng đế cuối cùng của Ethiopia, Ras Tafari, được phong làm hoàng đế Haile Selassie trong năm 1930. Haile Selassie đã cai trị cho đến khi ông bị lật đổ bởi cuộc xâm chiếm lần thứ hai của Italy, mà bắt đầu năm 1935, nhưng ông đã quay trở lại từ chốn lưu đày với sự giúp đỡ của người Anh trong năm 1941. Sau đó ông đã cai trị cho đến khi bị lật đổ trong một cuộc đảo chính năm 1974 bởi Derg, “Ủy ban”, một nhóm Marxist là các sĩ quan quân đội, những người sau đó đã tiếp tục bần cùng hóa và tàn phá đất nước. Các thể chế kinh tế khai thác cơ bản của đế chế Ethiopia chuyên chế, như gult (trang 178), và chủ nghĩa phong kiến được tạo ra sau sự suy tàn của Aksum, đã kéo dài cho đến khi chúng bị xóa bỏ sau cách mạng 1974.
Ngày nay Ethiopia là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Thu nhập của một người Ethiopia trung bình bằng khoảng một phần bốn mươi thu nhập của một công dân Anh trung bình. Hầu hết người dân sống ở nông thôn và thực hành nền nông nghiệp đủ sống qua ngày. Họ thiếu nước sạch, điện, và sự tiếp cận đến trường học hay chăm sóc sức khỏe thích hợp. Ước tính tuổi thọ là khoảng năm mươi lăm tuổi và chỉ một phần ba người lớn biết đọc biết viết. Một sự so sánh giữa Anh và Ethiopia bao quát sự bất bình đẳng thế giới. Lý do Ethiopia ở nơi nó ở ngày nay là, không giống ở nước Anh, ở Ethiopia chính thể chuyên chế đã tồn tại dai dẳng cho đến gần đây. Với chính thể chuyên chế, các thể chế kinh tế khai thác và sự nghèo khó đến với quần chúng nhân dân Ethiopia, mặc dù tất nhiên các hoàng đế và giới quý tộc đã hưởng lợi khổng lồ. Nhưng hệ lụy lâu dài nhất của chính thể chuyên chế đã là, xã hội Ethiopia đã không tận dụng được những cơ hội công nghiệp hóa trong thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi, và đấy là nguyên nhân chính của sự nghèo xác nghèo xơ của các công dân của nó hôm nay.
NHỮNG ĐỨA CON CỦA SOMAALE
Các thể chế chính trị chuyên chế quanh thế giới đã cản trở công nghiệp hóa hoặc một cách gián tiếp, theo cách chúng tổ chức các thể chế kinh tế, hoặc một cách trực tiếp, như chúng ta đã thấy ở Áo-Hungary và Nga. Nhưng chính thể chuyên chế đã không là vật cản trở duy nhất cho sự nổi lên của các thể chế kinh tế bao gồm. Vào buổi ban đầu của thế kỷ thứ mười chín, nhiều phần của thế giới, đặc biệt ở châu Phi, đã thiếu một nhà nước mà có thể cung cấp ngay cả mức tối thiểu luật và trật tự, mà là điều kiện tiên quyết để có một nền kinh tế hiện đại. Đã không có người tương đương của một Peter Đại Đế ở Nga bắt đầu quá trình tập trung hóa chính trị và sau đó tạo dựng chính thể chuyên chế Nga, nói chi đến những người tương đương của nhà Tudor ở nước Anh tập trung hóa nhà nước mà không hoàn toàn phá hủy – hay, chính xác hơn, mà không hoàn toàn có khả năng phá hủy – Quốc hội và các ràng buộc khác lên quyền lực của họ. Không có một mức độ nào đó của sự tập trung chính trị, cho dù các elite của các chính thể Phi châu này đã có muốn chào đón công nghiệp hóa với những cánh tay rộng mở, họ cũng đã chẳng làm được mấy.
Somalia, nằm ở Sừng châu Phi, minh họa các tác động tàn phá ghê gớm của việc thiếu sự tập trung hóa chính trị. Somalia đã bị cai trị về mặt lịch sử bởi những người được tổ chức thành sáu họ thị tộc. Bốn họ thị tộc lớn nhất là, Dir, Darod, Isaq, và Hawiye, tất cả đều truy nguyên tổ tiên của họ về một tổ tiên huyền bí Samaale. Các họ thị tộc này có xuất xứ ở bắc Somalia và dần dần đã lan xuống miền nam và sang miền đông, và ngay cả ngày nay chủ yếu là dân mục đồng, những người di cư với các đàn dê, cừu, và lạc đà của họ. Ở miền nam, những người Digil và Rahanweyn, định cư làm nông nghiệp, tạo thành hai họ thị tộc còn lại. Các lãnh thổ của các họ thị tộc này được vẽ trên Bản đồ 12 (trang 177).
Những người Somali đồng nhất mình trước tiên với họ thị tộc của mình, nhưng các họ thị tộc này là rất lớn và chứa nhiều nhóm con. Đầu tiên giữa các nhóm này là các thị tộc mà truy dòng dõi của họ về một trong các họ thị tộc lớn hơn. Quan trọng hơn là các nhóm bên trong các thị tộc được gọi là các nhóm trả-diya, mà gồm có những người bà con họ hàng có quan hệ mật thiết những người trả và thu diya, hay “tài sản máu-blood wealth,” sự đền bù đối với việc giết một thành viên của họ. Các thị tộc Somali và các nhóm trả-diya về mặt lịch sử đã bị khóa chặt vào xung đột hầu như liên miên vì các nguồn lực khan hiếm để tùy họ sử dụng, đặc biệt là các nguồn nước và đất đồng cỏ cho súc vật của họ. Họ cũng liên tục đột kích các bầy của các thị tộc láng giềng và các nhóm trả-diya. Mặc dù các thị tộc có các lãnh đạo gọi là các sultan, và cả những người già, những người này không có quyền lực thực sự. Quyền lực chính trị được phân tán rất rộng, với mỗi người lớn Somali đều có khả năng có tiếng nói của mình về các quyết định mà có thể tác động đến thị tộc hay nhóm. Điều này đạt được thông qua một hội đồng phi hình thức bao gồm tất cả những người đàn ông trưởng thành. Đã không có luật thành văn, không có cảnh sát, và không có hệ thống pháp lý để nói đến, trừ luật Sharia được dùng như một khung khổ mà trong đó các luật phi chính thức được nhúng vào. Các luật phi chính thức đối với một nhóm trả-diya được mã hóa trong cái được gọi là heer (tộc ước), một bộ các nghĩa vụ, các quyền, và các trách nhiệm được trình bày một cách rõ ràng mà nhóm đòi hỏi những người khác tuân theo trong các tương tác của họ với nhóm. Với sự đến của sự cai trị thuộc địa, các heer này bắt đầu được viết thành văn. Thí dụ, dòng dõi Hassan Ugaas đã tạo thành một nhóm trả-diya của khoảng một ngàn năm trăm đàn ông và là một tiểu thị tộc của họ thị tộc Dir ở Somaliland thuộc Anh. Ngày 8-3-1950, heer của họ được nghi lại bởi ủy viên quận Anh, ba điều khoản đầu tiên của nó có nghĩa là
-
Khi một người đàn ông Hassan Ugaas bị giết bởi một nhóm bên ngoài, thì hai mươi con lạc đà trong số tài sản máu (100) của anh ta sẽ được bà con gần nhất của anh ta lấy và tám mươi con lạc đà còn lại được chia giữa tất cả những người Hassan Ugaas.
-
Nếu một người đàn ông Hassan Ugaas bị một người ngoài làm bị thương và thương tật của anh ta được đánh giá là ba mươi ba và một phần ba con lạc đà, thì mười con được đưa cho anh ta và số còn lại cho nhóm-jiffo của anh ta (nhóm con của nhóm trả-diya).
-
Tội giết người giữa các thành viên Hassan Ugaas phải chịu một khoản đền bù ở mức ba mươi ba và một phần ba con lạc đà, được trả chỉ cho bà con thân thiết nhất của người đã mất. Nếu thủ phạm không có khả năng trả toàn bộ hay một phần, anh ta sẽ được dòng dõi giúp đỡ.
Sự chú tâm mạnh của heer vào việc giết và làm bị thương phản ánh trạng thái chiến tranh hầu như liên miên giữa các nhóm trả-diya và các thị tộc. Trung tâm của việc này đã là tài sản máu và hận thù máu. Một tội chống lại một cá nhân cá biệt là một tội chống lại cả nhóm trả-diya, và đòi hỏi phải đền bù tập thể, tài sản máu. Nếu tài sản máu như vậy không được trả, nhóm trả-diya của kẻ đã giết người đối mặt với sự trừng phạt tập thể của nạn nhân. Khi giao thông hiện đại đến Somalia, tài sản máu được mở rộng ra cho những người bị chết hay bị thương trong các tai nạn giao thông. Heer của Hassan Ugaas đã không chỉ dẫn chiếu đến sự giết người; điều 6 đã là “nếu một người Hassan Ugaas lăng mạ người khác tại một hội đồng Hassan Ugaas anh ta sẽ trả 150 shilling cho bên bị xúc phạm.”
Đầu năm 1955, các đàn của hai thị tộc, Habar Tol Ja’lo và Habar Yuunis, đang ăn cỏ gần nhau ở vùng Domberelly. Một người từ thị tộc Yuunis đã bị thương sau một cuộc tranh cãi với một thành viên của thị tộc Tol Ja’lo về chăn lạc đà. Thị tộc Yuunis lập tức trừng phạt, tấn công thị tộc Tol Ja’lo và giết một người. Cái chết này đã dẫn, theo luật tài sản máu, đến việc thị tộc Yunnis đề nghị đền bù cho thị tộc Tol Ja’lo, mà đã được chấp nhận. Người Yuunis đã phải đích thân đưa tài sản máu, như thường lệ bằng lạc đà. Trong lễ trao, một thành viên Tol Ja’lo đã giết một thành viên Yuunis, nhầm anh ta với thành viên của nhóm trả-diya của kẻ giết người. Việc này đã dẫn đến chiến tranh toàn lực, và trong vòng bốn mươi tám giờ mười ba người Yuunis và hai mươi sáu người Tol Ja’lo đã bị giết. Chiến tranh kéo dài thêm một năm nữa trước khi các già làng từ cả hai thị tộc, do chính quyền thuộc địa Anh dàn hòa, đã tìm được cách môi giới một thương vụ (trao đổi tài sản máu) mà thỏa mãn cả hai phía và được trả trong ba năm tiếp theo.
Việc trả tài sản máu đã xảy ra dưới cái bóng của sự đe dọa sức mạnh và sự hận thù, và ngay cả khi nó được trả, nó đã không nhất thiết ngừng xung đột. Thường xung đột lắng xuống và rồi lại bùng lên.
Quyền lực chính trị như thế được phân tán rộng trong xã hội Somali, hầu như một cách đa nguyên. Nhưng không có quyền lực của một nhà nước tập trung để thực thi trật tự, nói chi đến các quyền tài sản, thì việc này dẫn không đến các thể chế bao gồm. Chẳng ai tôn trọng quyền hạn của người khác, và chẳng ai, kể cả nhà nước thuộc địa Anh khi cuối cùng nó đã đến, đã có khả năng áp đặt trật tự. Sự thiếu tập trung hóa chính trị đã làm cho là không thể đối với người Somali để hưởng lợi từ Cách mạng Công nghiệp. Trong một bầu không khí như vậy là không thể tưởng tượng nổi để đầu tư vào hay chấp nhận các công nghệ mới bắt nguồn từ Anh, hay quả thực để tạo ra loại tổ chức cần thiết để làm vậy.
Hoạt động chính trị phức tạp của Somalia đã thậm chí có các hệ lụy tế nhị hơn đối với tiến bộ kinh tế. Chúng ta đã nhắc tới ở trước một vài trong số các câu đố công nghệ lớn của lịch sử châu Phi. Trước sự mở rộng của sự cai trị thuộc địa vào cuối thế kỷ thứ mười chín, các xã hội Phi châu đã không sử dụng bánh xe trong giao thông hay cày trong nông nghiệp, và ít xã hội có chữ viết. Ethiopia đã có như chúng ta đã thấy. Những người Somali cũng đã có chữ viết, nhưng không giống những người Ethiopia, họ đã không sử dụng nó. Chúng ta đã thấy rồi các trường hợp thế này trong lịch sử Phi châu. Các xã hội Phi châu đã có thể không sử dụng bánh xe hay cày, nhưng chắc chắn họ biết về chúng. Trong trường hợp của vương quốc Kongo mà chúng ta đã thấy, đấy đã cơ bản là do sự thực rằng các thể chế kinh tế đã không tạo ra các khuyến khích nào cho người dân để chấp nhận làm theo các công nghệ này. Liệu cùng các vấn đề có thể nảy sinh với sự chấp nhận chữ viết hay không?
Chúng ta có thể có được cảm nhận nào đó về điều này từ Vương quốc Taqali, nằm ở tây bắc Somalia, ở Nuba Hills của nam Sudan. Vương quốc Taqali được hình thành trong cuối thế kỷ thứ mười tám bởi một băng nhóm chiến binh đứng đầu bởi một người gọi là Isma’il, và nó đã vẫn độc lập cho đến khi được hợp nhất vào Đế chế Anh trong năm 1884. Các vua và nhân dân Taqali đã biết đến chữ viết Arab, nhưng nó đã không được sử dụng – trừ bởi các vua, cho việc liên lạc bên ngoài với các chính thể khác và thư từ ngoại giao. Đầu tiên tình hình này có vẻ rất khó hiểu. Tường thuật truyền thống về nguồn gốc của chữ viết ở Mesopotamia là, nó đã được phát triển bởi nhà nước để ghi thông tin, kiểm soát người dân, và thu thuế. Chẳng phải nhà nước Taqali đã không quan tâm đến việc này?
Những vấn đề này được nghiên cứu bởi sử gia Janet Ewald vào cuối các năm 1970 khi bà đã thử tái dựng lịch sử của nhà nước Taqali. Một phần của câu chuyện là, các công dân đã chống lại việc sử dụng chữ viết bởi vì họ đã sợ rằng nó được dùng để kiểm soát các nguồn lực, như đất đai có giá trị, bằng cách cho phép nhà nước đòi quyền sở hữu. Họ cũng đã sợ rằng nó sẽ dẫn đến sự đánh thuế có hệ thống hơn. Triều đại mà Isma’il khởi động đã không quện lại thành một nhà nước hùng mạnh. Cho dù ông đã có muốn, nhà nước đã không đủ mạnh để áp đặt ý chí của nó lên trên những sự phản đối của các công dân. Nhưng đã có các nhân tố khác, tế nhị hơn, đang tác động. Các elite khác nhau cũng chống đối sự tập trung hóa chính trị, chẳng hạn, thích giao tiếp bằng lời hơn bằng văn bản với các công dân, bởi vì việc này đã cho phép họ tự do định đoạt một cách tối đa. Khó có thể rút lại hay từ chối các luật hay các mệnh lệnh thành văn và cũng khó để thay đổi chúng; chúng tạo ra các điểm mốc chuẩn mà các elite cai trị có thể muốn đảo ngược. Như thế cả những người bị trị lẫn những kẻ cai trị của Taqali đều không thấy việc đưa chữ viết vào là có lợi cho họ. Kẻ bị trị đã sợ những người cai trị sẽ dùng nó ra sao, và bản thân những người cai trị thấy sự thiếu chữ viết như sự giúp đỡ cho sự nắm quyền lực khá bấp bênh của họ. Chính trị của Taqali đã là cái giữ chữ viết không được đưa vào. Thế nhưng những người Somali thậm chí đã có ít giới elite được xác định rõ, khi so với vương quốc Taqali, nên hoàn toàn có vẻ hợp lý rằng cùng các lực đã kiềm chế việc họ sử dụng chữ viết và các công nghệ cơ bản khác.
Trường hợp Somali cho thấy các hệ quả của sự thiếu tập trung hóa chính trị đối với tăng trưởng kinh tế. Tài liệu lịch sử không ghi lại các trường hợp về các nỗ lực để tạo ra sự tập trung hóa như vậy ở Somalia. Tuy nhiên, là rõ vì sao việc này đã rất khó. Để tập trung hóa về mặt chính trị đã phải có nghĩa rằng thị tộc nào đó phải chịu sự kiểm soát của các thị tộc khác. Nhưng họ đã từ chối bất cứ sự thống trị nào như vậy, và sự từ bỏ quyền lực của họ mà điều này đòi hỏi; sự cân bằng sức mạnh quân sự trong xã hội cũng làm cho khó để tạo ra các thể chế tập trung như vậy. Thực ra, rất có khả năng là bất cứ nhóm hay thị tộc nào thử tập trung quyền lực sẽ không chỉ phải đối mặt với sự chống đối khốc liệt mà cũng sẽ mất quyền lực và đặc quyền hiện tồn của nó. Như một hệ quả của sự thiếu tập trung hóa chính trị và sự thiếu an toàn cơ bản của các quyền tài sản bị kéo theo, xã hội Somali đã chẳng bao giờ tạo ra các khuyến khích để đầu tư vào các công nghệ nâng cao năng suất. Khi quá trình công nghiệp hóa đã đang tiến triển ở các phần khác của thế giới trong thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi, thì những người Somali mang mối thù hận và tự lo liệu cho cuộc sống của họ, và sự lạc hậu kinh tế của họ đã trở nên ăn sâu thêm.
SỰ LẠC HẬU KÉO DÀI
Cách mạng Công nghiệp đã tạo ra một bước ngoặt biến đổi cho toàn bộ thế giới trong thế kỷ thứ mười chín và xa hơn: các xã hội, mà đã cho phép và đã tạo khuyến khích cho các công dân của mình đầu tư vào các công nghệ mới, đã có thể phát triển nhanh chóng. Nhưng nhiều xã hội quanh thế giới đã không làm được thế – hay đã chọn một cách tường minh để không làm thế. Các quốc gia dưới ách của các thể chế chính trị và kinh tế khai thác đã không tạo ra các khuyến khích như vậy. Tây Ban Nha và Ethiopia cung cấp các thí dụ nơi sự kiểm soát chuyên chế đối với các thể chế chính trị và các thể chế kinh tế khai thác bị kéo theo đã bóp nghẹt các khuyến khích kinh tế trước xa buổi bình minh của thế kỷ thứ mười chín. Kết quả đã giống nhau trong các chế độ chuyên chế khác – thí dụ, ở Áo-Hungary, Nga, Đế chế Ottoman, và Trung Quốc, mặc dù trong các trường hợp này các nhà cai trị, bởi vì nỗi sợ sự phá hủy sáng tạo, đã không chỉ sao lãng cổ vũ tiến bộ kinh tế mà còn đưa ra các bước cụ thể để cản trở sự mở rộng công nghiệp và việc đưa các công nghệ mới vào mà sẽ dẫn đến công nghiệp hóa.
Chính thể chuyên chế không phải là hình thức duy nhất của các thể chế chính trị khai thác và đã không là nhân tố duy nhất ngăn công nghiệp hóa. Các thể chế chính trị và kinh tế bao gồm cần đến mức độ nào đó của sự tập trung hóa chính trị sao cho nhà nước có thể thực thi luật pháp và trật tự, ủng hộ các quyền tài sản, và cổ vũ hoạt động kinh tế khi cần thiết bằng đầu tư vào các dịch vụ công. Thế nhưng ngay cả hiện nay, nhiều quốc gia, như Afghanistan, Haiti, Nepal, và Somalia, có các nhà nước mà không có khả năng duy trì trật tự thô sơ nhất, và các khuyến khích kinh tế hầu như bị hủy hoại. Trường hợp của Somalia minh họa bằng cách nào quá trình công nghiệp hóa cũng đã bỏ qua các xã hội như vậy. Sự tập trung hóa chính trị bị chống lại vì cùng lý do mà các chế độ chuyên chế chống lại sự thay đổi: nỗi sợ thường được đặt đúng chỗ rằng sự thay đổi sẽ phân bổ lại quyền lực từ những người đang thống trị hôm nay sang các cá nhân và các nhóm mới. Như thế, một chính thể chuyên chế cản các bước đi theo hướng chủ nghĩa đa nguyên và sự thay đổi kinh tế, các elite truyền thống và các thị tộc thống trị các xã hội mà không có nhà nước tập trung cũng làm vậy. Như một hệ quả, các xã hội vẫn thiếu sự tập trung hóa như vậy trong các thế kỷ thứ mười tám và mười chín đã đặc biệt bất lợi trong thời đại công nghiệp.
Trong khi nhiều thứ khác nhau của các thể chế khai thác trải từ chính thể chuyên chế đến các nhà nước với ít tập trung hóa đã không tận dụng được lợi thế của sự mở rộng công nghiệp, bước ngoặt của Cách mạng Công nghiệp đã có những tác động rất khác trong các phần khác của thế giới. Như chúng ta sẽ thấy trong chương 10, các xã hội mà đã có các bước theo hướng các thể chế bao gồm, như Hoa Kỳ và Australia, và các xã hội nơi chính thể chuyên chế đã bị thách thức nghiêm trọng hơn, như Pháp và Nhật Bản, đã tận dụng được các cơ hội kinh tế mới này và đã bắt đầu một quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh. Như thế, hình mẫu thông thường của sự tương tác giữa một bước ngoặt và những khác biệt thể chế hiện tồn dẫn đến sự phân kỳ thêm nữa về thể chế chính trị và kinh tế đã diễn ra lần nữa trong thế kỷ thứ mười chín, và lần này với một tiếng nổ thậm chí còn lớn hơn và các tác động cơ bản hơn lên sự thịnh vượng và nghèo khó của các quốc gia.
Người dịch: Nguyễn Quang A
Nguồn: Why Nations Fail
THE ORIGINS OF POWER, PROSPERITY, AND POVERTY
Daron Acemoglu and Jemes A. Robinson
Crown Publishers ● New York