Nhìn ra thế giới

Vì sao các quốc gia thất bại (NGUỒN GỐC CỦA QUYỀN LỰC, THỊNH VƯỢNG VÀ SỰ NGHÈO KHÓ) [14]

14.

PHÁ VỠ KHUÔN ĐÚC

BA THỦ LĨNH PHI CHÂU

NGÀY 6 THÁNG CHÍN, 1895, tầu biển chở khách Tantallon Castle đã vào bến ở Plymouth miền duyên hải phía nam nước Anh. Ba thủ lĩnh Phi châu, Khama của Ngwato, Bathoen của Ngwaketse, và Sebele của Kwena, đã lên bờ và lấy chuyến xe lửa tốc hành 8 giờ 10 đi đến Ga Paddington, London. Ba thủ lĩnh đã đến Anh với một nhiệm vụ: để cứu các nhà nước của họ và năm nhà nước Tswana khác khỏi Cecil Rhodes. Ngwato, Ngwaketse, và Kwena đã là ba trong số tám nhà nước Tswana tạo thành cái khi đó được biết đến như Bechuanaland, mà sẽ trở thành Botswana sau độc lập trong năm 1966.

Các bộ lạc này đã buôn bán với những người Âu châu trong hầu hết thế kỷ thứ mười chín. Trong các năm 1840, David Livingstone nhà truyền giáo Scot nổi tiếng đã đi khắp Bechuanaland và đã cải đạo Vua Sechele của Kwena sang Kitô giáo (Christianity). Bản dịch đầu tiên của Kinh Thánh sang một ngôn ngữ Phi châu đã là bằng tiếng Setswana, ngôn ngữ của Tswana. Năm 1885 Anh đã tuyên bố Bechuanaland là một xứ bảo hộ. Những người Tswana đã thỏa mãn với sự dàn xếp, vì họ đã nghĩ rằng việc này sẽ mang lại sự bảo vệ cho họ khỏi các cuộc xâm lấn thêm của những người Âu châu, đặc biệt khỏi những người Boer, mà họ đã đụng độ với từ cuộc Di cư Lớn (Great Trek) trong năm 1835, một cuộc di cư của hàng ngàn người Boer vào nội địa để tránh chủ nghĩa thực dân Anh. Những người Anh, mặt khác, đã muốn kiểm soát vùng này để chặn cả sự bành trướng thêm bởi những người Boer (trang 260-261) và sự bành trướng khả dĩ của những người Đức, mà đã sáp nhập vùng tây nam châu Phi tương ứng với Namibia ngày nay. Những người Anh đã không nghĩ rằng một sự thuộc địa hóa quy mô rộng là bõ công. Cao ủy Rey đã tóm tắt thái độ của chính phủ Anh năm 1885 một cách rõ ràng: “Chúng ta không có lợi ích nào ở nước nằm ở phía bắc Molope [xứ bảo hộ Bechuanaland], trừ như một đường vào nội địa; vì thế hiện tại chúng ta có thể giới hạn mình để ngăn phần đó của xứ Bảo hộ bị chiếm đóng hoặc bởi bọn giặc cướp hay bởi các cường quốc nước ngoài, làm càng ít theo cách của chính quyền hay khu định cư càng tốt.”

Nhưng đối với những người Tswana tình hình đã thay đổi trong năm 1889 khi công ty Nam Phi Anh của Cecil Rhodes đã bắt đầu bành trướng lên phía bắc từ Nam Phi, cướp đoạt các dải đất lớn mà cuối cùng trở thành Bắc và Nam Rhodesia, bây giờ là Zambia và Zimbabwe. Vào năm 1895, năm của cuộc viếng thăm của ba thủ lĩnh đến London, Rhodes đã để mắt đến các vùng lãnh thổ tây nam của Rhodesia, Bechuanaland. Các thủ lĩnh đã biết rằng chỉ có tai họa và sự bóc lột nằm ở phía trước đối với các vùng lãnh thổ nếu chúng rơi vào sự kiểm soát của Rhodes. Mặc dù đã là không thể đối với họ để đánh bại Rhodes về mặt quân sự, họ đã kiên quyết để chiến đấu với ông ta theo bất cứ cách nào họ có thể. Họ đã quyết định chọn cái ít tệ hơn trong hai cái xấu: một sự kiểm soát lớn hơn của người Anh, hơn là sự sáp nhập bởi Rhodes. Với sự giúp đỡ của Hội Truyền giáo London, họ đã đi đến London để thử thuyết phục Nữ hoàng Victoria và Joseph Chamberlain, bộ trưởng thuộc địa khi đó, để có sự kiểm soát nhiều hơn đối với Bechuanaland và bảo vệ nó khỏi Rhodes.

Ngày 11 tháng Chín, 1895, họ đã có cuộc gặp đầu tiên với Chamberlain. Sebele nói đầu tiên, rồi đến Bathoen, và cuối cùng Khama. Chamberlain đã tuyên bố rằng ông sẽ xem xét việc áp đặt sự kiểm soát Anh để bảo vệ các bộ lạc khỏi Rhodes. Trong khi đó, các thủ lĩnh đã nhanh chóng bắt tay vào một tua nói chuyện khắp nước để đánh trống khua chiêng tìm kiếm sự ủng hộ cho các đòi hỏi của họ. Họ đã thăm và nói chuyện tại Windsor và Reading, gần London; tại Southampton ở duyên hải phía nam; và ở Leicester và Birmingham, tại cơ sở ủng hộ chính trị của Chamberlain, vùng Trung du. Họ đã đi lên miền bắc công nghiệp đến Yorkshire, Sheffield, Leeds, Halifax, và Bradford; họ cũng đã sang miền tây đến Bristol và rồi đến Manchester và Liverpool.

Trong khi đó, ở Nam Phi, Cecil Rhodes đã tiến hành công việc chuẩn bị cho cái trở thành cuộc Bố ráp Jameson thảm khốc, một cuộc tấn công vũ trang vào Cộng hòa Boer của Transvaal, bất chấp sự phản đối mạnh mẽ của Chamberlain. Các sự kiện này chắc đã làm cho Chamberlain thông cảm hơn nhiều với cảnh ngộ của các thủ lĩnh, hơn là ông đã có thể nếu khác đi. Ngày 6 tháng Mười Một, họ lại gặp ông ở London. Các thủ lĩnh đã nói thông qua một người phiên dịch:

Chamberlain: Tôi sẽ nói về các cùng đất của các thủ lĩnh, và về đường sắt, và về luật mà phải được tôn trọng trong lãnh thổ của các thủ lĩnh … Bây giờ hãy nhìn vào bản đồ … Chúng tôi sẽ lấy đất mà chúng tôi muốn cho đường sắt, và không hơn.

Khama: Tôi nói, rằng nếu Ông Chamberlain sẽ đích thân lấy đất, tôi sẽ bằng lòng.

Chamberlain: Rồi hãy bảo ông rẳng tôi sẽ đính thân sai người làm đường sắt với con mắt của người tôi sẽ phái đến đó và tôi sẽ chỉ lấy ở mức mà tôi cần đến, và sẽ đền bù nếu cái tôi lấy có giá trị.

Khama: Tôi muốn biết đường sắt sẽ đi thế nào [tức là ở đâu].

Chamberlain: Nó sẽ đi qua lãnh thổ của ông nhưng sẽ được rào lại, và chúng tôi sẽ không lấy đất nào cả.

Khama: Tôi tin rằng ông sẽ làm việc này như cho bản thân tôi, và đối xử với tôi một cách công bằng về vấn đề này.

Chamberlain: Tôi sẽ bảo vệ các lợi ích của ông.

Ngày hôm sau, Edward Fairfield, tại Văn phòng Thuộc địa, đã giải thích sự dàn xếp của Chamberlain chi tiết hơn:

Mỗi trong ba thủ lĩnh, Khama, Sebele và Bathoen, sẽ có một nước mà bên trong đó họ sẽ sống như cho đến nay dưới sự che chở của Nữ Hoàng. Nữ Hoàng sẽ chỉ định một quan chức để cư trú ở đó với họ. Các thủ lĩnh sẽ cai trị nhân dân của chính họ hầu như như hiện nay.

Phản ứng của Rhodes với việc bị sự khôn khéo của ba thủ lĩnh Phi châu làm cho thất bại đã là có thể tiên đoán được. Ông đã đánh điện cho một trong các nhân viên của mình, than, “Tôi không thích bị đánh bởi ba người bản xứ ăn nói giả dối.”

Các thủ lĩnh thực ra đã có cái gì đó có giá trị mà họ bảo vệ khỏi Rhodes và sau đó sẽ bảo vệ khỏi sự cai trị gián tiếp của Anh. Vào thế kỷ thứ mười chín, các nhà nước Tswana đã phát triển một tập lõi của các thể chế chính trị. Những thể chế này đã bao hàm cả một mức độ khác thường, theo các tiêu chuẩn Phi châu hạ-Sahara, của sự tập trung hóa chính trị và các thủ tục ra quyết định tập thể mà thậm chí có thể coi như một dạng mới sinh, thô sơ của chủ nghĩa đa nguyên. Hệt như Magna Carta đã cho phép sự tham gia của các nam tước vào quá trình ra quyết định chính trị và đưa ra một số hạn chế lên các hành động của các quốc vương Anh, các thể chế chính trị của những người Tswana, đặc biệt là kgotla, cũng đã khuyến khích sự tham gia chính trị và hạn chế các thủ lĩnh. Nhà nhân loại học Nam Phi Isaac Schapera mô tả kgotla đã hoạt động thế nào như sau:

tất cả các vấn đề về chính sách bộ lạc được giải quyết cuối cùng trước một đại hội đồng của những người đàn ông trưởng thành trong kgotla (địa điểm hội đồng) của thủ lĩnh. Các cuộc họp như vậy được tổ chức rất thường xuyên … giữa các đề tài được thảo luận … có các tranh chấp bộ lạc, những sự cãi nhau giữa thủ lĩnh và họ hàng của ông, việc đánh các loại thuế mới, tiến hành các công trình công cộng mới, ban hành các sắc lệnh mới bởi thủ lĩnh … không phải là lạ đối với hội đồng bộ lạc để bác bỏ các ý muốn của thủ lĩnh. Vì bất cứ ai có thể nói, các cuộc họp này cho phép ông biết chắc các ý kiến của nhân dân nói chung, và tạo cho nhân dân một cơ hội để nói rõ những mối bất bình của họ. Nếu có cơ hội, ông và các cố vấn của ông có thể làm nhiệm vụ này một cách nghiêm túc, vì người dân ít khi sợ để nói công khai và thẳng thắn.

Vượt xa hơn kgotla, chức thủ lĩnh Tswana đã không mang tính cha truyền con nối nghiêm ngặt mà mở ra cho bất cứ người đàn ông nào chứng minh tài năng đáng kể và năng lực. Nhà nhân loại học John Comaroff đã nghiên cứu chi tiết lịch sử chính trị của một nhà nước Tswana khác, nhà nước Rolong. Ông đã chứng tỏ rằng mặc dù về bề ngoài những người Tswana đã có các quy tắc rõ ràng quy định chức thủ lĩnh được thừa kế ra sao, trong thực tiễn các quy tắc này được diễn giải để loại bỏ các nhà cai trị xấu và cho phép các ứng viên có tài để trở thành thủ lĩnh. Ông đã chứng tỏ rằng trúng chức thủ lĩnh đã là vấn đề thành tựu, nhưng khi đó đã được hợp lý hóa sao cho đối thủ cạnh tranh thành công tỏ ra là người thừa kế hợp pháp. Những người Tswana đã thâu tóm ý tưởng này với một tục ngữ, với một nét thoáng của nền quân chủ lập hiến: kgosi ke kgosi ka morafe, “Vua là vua bởi ân huệ của nhân dân.”

Các thủ lĩnh Tswana đã tiếp tục các nỗ lực để duy trì sự độc lập của họ với Anh và bảo tồn các thể chế bản xứ của họ sau chuyến đi đến London. Họ đã nhường cho việc xây dựng đường sắt ở Bechuanaland, nhưng đã hạn chế sự can thiệp của người Anh trong các khía cạnh khác của đời sống kinh tế và chính trị. Họ đã không phản đối việc xây dựng đường sắt, chắc chắn không vì cùng các lý do như các quốc vương Áo-Hungary và Nga đã ngăn chặn đường sắt. Họ chỉ đã nhận ra rằng đường sắt, giống các chính sách khác của người Anh, sẽ không mang lại sự phát triển cho Bechuanaland chừng nào nó còn dưới sự kiểm soát thuộc địa. Kinh nghiệm ban đầu của Quett Masire, Tổng thống từ năm 1980 đến 1998 của Botswana độc lập, giải thích vì sao. Masire đã là một nông dân kinh doanh trong các năm 1950; ông đã phát triển những kỹ thuật mới cho việc trồng lúa miến và đã tìm được một khách hàng tiềm năng ở Vryburg Milling, một công ty đóng ở bên kia biên giới bên Nam Phi. Ông đã đến trưởng ga xe lửa tại Lobatse ở Bechuanaland và hỏi thuê hai toa xe để chuyển hàng của ông đến Vryburg. Trưởng ga đã từ chối. Rồi ông nhờ một người bạn da trắng can thiệp. Trưởng ga miễn cưỡng đồng ý, nhưng chào giá cho Masire cao gấp bốn lần giá cho những người da trắng. Masire đã bỏ cuộc và kết luận, “Đã là tập quán của những người da trắng, không chỉ các luật cấm những người Phi châu sở hữu đất vô thời hạn hay có được các giấy phép buôn bán mà đã không để những người da đen phát triển các doanh nghiệp ở Bechuanaland.”

Xét cho cùng, các thủ lĩnh, và nhân dân Tswana, đã may mắn. Có lẽ bất chấp mọi khó khăn bất lợi, họ đã thành công ngăn chặn sự thôn tính của Rhodes. Vì Bechuanaland đã vẫn không đáng kể đối với người Anh, việc thiết lập sự cai trị gián tiếp đã không tạo ra kiểu vòng luẩn quẩn diễn ra ở Sierra Leone (trang 335-344). Họ cũng đã tránh được loại mở rộng thuộc địa mà đã tiếp diễn ở nội địa của Nam Phi mà biến những vùng đất đó thành các nguồn lao động rẻ mạt cho các nhà khai mỏ hay chủ trang trại da trắng. Các giai đoạn ban đầu của quá trình thuộc địa hóa là một bước ngoặt cho hầu hết các xã hội, một thời kỳ quyết định mà trong thời gian đó diễn ra các sự kiện có những hệ quả dài hạn quan trọng cho sự phát triển kinh tế và chính trị của chúng. Như chúng ta đã thảo luận ở chương 9, hầu hết các xã hội ở châu Phi hạ-Sahara, hệt như các xã hội ở Nam Mỹ và nam Á, đã chứng kiến sự thiết lập hay sự tăng cường của các thể chế khai thác trong thời kỳ thuộc địa hóa. Những người Tswana thay vào đó đã tránh được cả sự cai trị gián tiếp mạnh và số phận tồi tệ hơn nhiều mà đã có thể xảy ra đối với họ giả như Rhodes đã thành công sáp nhập đất đai của họ. Đấy, tuy vậy, đã không đơn thuần là sự may rủi mù quáng. Lần nữa nó đã là kết quả của sự tác động qua lại giữa các thể chế hiện tồn, được định hình bởi sự trôi dạt thể chế của nhân dân Tswana, và bước ngoặt do chủ nghĩa thực dân gây ra. Ba thủ lĩnh đã tạo ra sự may mắn của chính họ bằng cách đưa ra sáng kiến và đi đến London, và họ đã có khả năng làm việc này bởi vì họ đã có một mức độ khác thường về quyền hạn, so với các lãnh tụ bộ lạc khác ở châu Phi hạ-Sahara, nhờ sự tập trung hóa chính trị mà các bộ lạc Tswana đã đạt được, và có lẽ họ cũng đã có một mức độ khác thường của tính hợp pháp chính đáng, bởi vì chút ít chủ nghĩa đa nguyên đã được cấy trong các thể chế bộ lạc của họ.

Một bước ngoặt khác vào lúc kết thúc thời kỳ thuộc địa có tính quyết định hơn đối với thành công của Botswana, cho phép nó phát triển các thể chế bao gồm. Vào lúc Bechuanaland trở thành độc lập năm 1966 dưới cái tên Botswana, thành công may mắn của các thủ lĩnh Sebele, Bathoen, và Khama đã là lâu trong quá khứ. Trong các năm ở giữa, những người Anh đã đầu tư ít ở Bechuanaland. Vào lúc độc lập, Botswana đã là một trong những nước nghèo nhất thế giới; nó đã có tổng cộng mười hai kilomet đường được trải bề mặt, hai mươi hai công dân tốt nghiệp đại học, và một trăm người tốt nghiệp cấp hai. Và tồi tệ nhất là, nó đã hầu như hoàn toàn bị bao vây bởi các chế độ da trắng của Nam Phi, Namibia, và Rhodesia, tất cả chúng đã đều thù địch với các nước Phi châu độc lập do những người da đen quản lý. Nó đã ở trong danh sách của ít người về các nước chắc có khả năng thành công. Thế nhưng trong hai mươi lăm năm tiếp theo, Botswana đã trở thành một trong những nước tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Ngày nay Botswana có thu nhập đầu người cao nhất ở châu Phi hạ-Sahara, và ở cùng mức như các nước Đông Âu thành công như Estonia và Hungary, và các quốc gia Mỹ Latin thành công nhất, như Costa Rica.

Botswana đã phá vỡ khuôn đúc như thế nào? Bằng cách phát triển nhanh các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm sau độc lập. Kể từ đó, nó đã là dân chủ, tổ chức các cuộc bầu cử đều đặn và cạnh tranh, và đã chẳng bao giờ trải qua nội chiến hay sự can thiệp quân sự. Chính phủ đã dựng lên các thể chế kinh tế thực thi các quyền tài sản, bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô, và khuyến khích sự phát triển của một nền kinh tế thị trường bao gồm. Nhưng tất nhiên, câu hỏi thách thức hơn là, Botswana đã làm thế nào để tìm được cách thiết lập một nền dân chủ ổn định và các thể chế đa nguyên, và chọn được các thể chế kinh tế bao gồm, trong khi hầu hết các nước Phi châu khác đã làm ngược lại? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta phải hiểu một bước ngoặt, lần này là sự chấm dứt của sự cai trị thực dân, đã tương tác thế nào với các thể chế hiện tồn của Botswana.

Trong hầu hết châu Phi hạ-Sahara – chẳng hạn, Sierra Leone và Zimbabwe – sự độc lập đã là một cơ hội bị bỏ lỡ, đã đi cùng với sự tái-tạo cùng kiểu các thể chế khai thác mà đã tồn tại trong thời kỳ thuộc địa. Các giai đoạn ban đầu của sự độc lập diễn ra rất khác ở Botswana, lẫn nữa chủ yếu bởi vì cái nền do các thể chế lịch sử Tswana tạo ra. Về khía cạnh này, Botswana thể hiện nhiều sự tương tự với nước Anh gần đến Cách mạng Vinh quang. Nước Anh đã có sự tập trung hóa chính trị nhanh chóng dưới thời nhà Tudor và đã có Magna Carta và một truyền thống Nghị viện mà chí ít đã có thể mong mỏi để kiềm chế các quốc vương và bảo đảm mức độ nào đó của chủ nghĩa đa nguyên. Botswana cũng đã có mức độ nào đó của sự tập trung hóa nhà nước và các thể chế bộ lạc đa nguyên một cách tương đối mà đã sống sót qua được chủ nghĩa thực dân. Nước Anh đã có một liên minh rộng mới hình thành, gồm có các nhà buôn Đại Tây Dương, các nhà công nghiệp, và giới quý tộc nhỏ (gentry) có đầu óc thương mại, mà đã ủng hộ các quyền tài sản được thực thi nghiêm. Botswana đã có liên minh của mình ủng hộ các quyền thủ tục an toàn, các thủ lĩnh Tswana, và các elite những người đã sở hữu các tài sản chính trong nền kinh tế, gia súc. Cho dù đất đã là chung của cộng đồng, gia súc đã là tài sản tư nhân trong các nhà nước Tswana, và tương tự các elite đã ủng hộ các quyền tài sản được thực thi nghiêm. Tất cả những thứ này tất nhiên không từ chối con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử. Tình hình đã hóa ra rất khác ở nước Anh nếu giả như các lãnh đạo quốc hội và quốc vương mới đã thử sử dụng Cách mạng Vinh quang để chiếm đoạt quyền lực. Tương tự, tình hình đã có thể hóa ra rất khác ở Botswana, đặc biệt nếu giả như nó đã không may như vậy để có các nhà lãnh đạo như Seretse Khama, hay Quett Masire, những người đã quyết định tranh đua trong các cuộc bầu cử để nắm quyền hơn là phá vỡ hệ thống bầu cử, như nhiều lãnh tụ sau độc lập ở châu Phi hạ-Sahara đã làm.

Vào lúc độc lập những người Tswana đã nổi lên với một lịch sử của các thể chế coi là linh thiêng chức thủ lĩnh hạn chế và mức độ nào đó của trách nhiệm giải trình của các thủ lĩnh đối với nhân dân. Những người Tswana tất nhiên đã không là độc nhất ở châu Phi vì có các thể chế giống như thế này, nhưng họ đã là độc nhất trong chừng mực mà các thể chế này đã sống sót qua được thời kỳ thuộc địa mà không bị tổn thương. Sự cai trị Anh đã hầu như thiếu vắng. Bechuanaland đã được quản lý từ Mafeking, ở Nam Phi, và chỉ trong thời gian quá độ đến độc lập trong các năm 1960 thì các kế hoạch cho thủ đô Gaborone mới được vạch ra. Thủ đô và các cấu trúc mới ở đó đã không có ý định để xóa các thể chế bản xứ, mà để xây dựng trên chúng; khi Gaborone được xây dựng, các kgotla mới được lên kế hoạch cùng với nó.

Độc lập cũng đã là chuyện tương đối trật tự. Cuộc vận động cho độc lập đã được lãnh đạo bởi Đảng Dân chủ Botswana (BDP), được thành lập năm 1960 bởi Quett Masire và Seretse Khama. Khama đã là cháu của Vua Khama III; tên của ông, Seretse, có nghĩa “đất sét mà kết dính với nhau.” Nó đã là một cái tên đặc biệt thích hợp. Khama đã là thủ lĩnh thừa kế của người Ngwato, và hầu hết các thủ lĩnh Tswana và các elite đã gia nhập Đảng Dân chủ Botswana. Botswana đã không có một hội đồng marketing, bởi vì những người Anh đã rất không quan tâm đến thuộc địa này. BDP đã nhanh chóng dựng lên một hội đồng trong năm 1967, Ủy Ban Thịt Botswana. Nhưng thay cho việc tước đoạt các chủ trại nuôi súc vật và các chủ sở hữu súc vật, Ủy Ban Thịt đã đóng một vai trò chính trong phát triển nền kinh tế chăn nuôi gia súc; nó đã dựng lên các hàng rào để kiểm soát bệnh lở mồm long móng và thúc đẩy xuất khẩu, mà cả đóng góp cho sự phát triển kinh tế và làm tăng sự ủng hộ cho các thể chế kinh tế bao gồm.

Mặc dù sự tăng trưởng ban đầu ở Botswana đã dựa trên xuất khẩu thịt, tình hình đã thay đổi đột ngột khi kim cương được phát hiện ra. Việc quản lý các tài nguyên thiên nhiên ở Botswana cũng đã khác một cách rõ rệt với việc quản lý ở các quốc gia Phi châu khác. Trong thời kỳ thuộc địa, các thủ lĩnh Tswana đã thử ngăn chặn thăm dò khoáng sản ở Bechuanaland bởi vì họ đã biết rằng nếu những người Âu châu khám phá ra các kim loại hay đá quý, thì sự tự trị của họ sẽ không còn. Sự phát hiện lớn đầu tiên thấy kim cương đã ở dưới lòng đất Ngwato, quê hương truyền thống của Seretse Khama. Trước khi sự phát hiện được công bố, Khama đã xúi giục một sự thay đổi về luật sao cho tất cả các quyền khoáng sản dưới đất thuộc về quốc gia, chứ không thuộc về bộ lạc. Việc này bảo đảm rằng của cải kim cương sẽ không tạo ra những sự bất bình đẳng lớn ở Botswana. Nó cũng đã tạo thêm sự thúc đẩy quá trình tập trung hóa nhà nước vì các nguồn thu kim cương bây giờ có thể được dùng cho việc xây dựng một bộ máy nhà nước và hạ tầng cơ sở và đầu tư vào giáo dục. Ở Sierra Leone và nhiều quốc gia Phi châu hạ-Sahara khác, kim cương đã kích động, đã cấp nhiên liệu cho xung đột giữa các nhóm khác nhau và đã giúp duy trì các cuộc nội chiến, có được nhãn Kim cương Đẫm Máu vì sự tàn sát do các cuộc chiến tranh để giành quyền kiểm soát kim cương. Ở Botswana, các nguồn thu kim cương đã được quản lý cho lợi ích của quốc gia.

Sự thay đổi về các quyền khoáng sản dưới đất đã không chỉ là chính sách duy nhất của việc xây dựng nhà nước mà chính phủ Seretse Khama đã thực hiện. Cuối cùng Đạo luật Chức thủ lĩnh năm 1965 đã được hội đồng lập pháp thông qua trước khi độc lập, và Đạo Luật sửa đổi luật Chức thủ lĩnh năm 1970 đã tiếp tục quá trình tập trung hóa chính trị, tôn thờ quyền lực nhà nước và Tổng thống được bầu bằng cách bãi bỏ quyền phân bổ đất của các thủ lĩnh và cho phép Tổng thống loại bỏ một thủ lĩnh khỏi chức nếu cần thiết. Một mặt khác nữa của sự tập trung hóa chính trị đã là nỗ lực để thống nhất đất nước hơn nữa, thí dụ, với luật pháp bảo đảm rằng chỉ tiếng Setswana và tiếng Anh được dạy ở trường. Ngày nay Botswana trông giống một nước thuần nhất, không có sự chắp vá sắc tộc và ngôn ngữ như ở nhiều quốc gia Phi châu khác. Nhưng đấy là một kết quả của chính sách để có chỉ tiếng Anh và một ngôn ngữ dân tộc duy nhất, tiếng Setswana, được dạy ở trường để tối thiểu hóa xung đột giữa các bộ lạc và các nhóm khác nhau bên trong xã hội. Tổng điều tra dân số cuối cùng đưa ra các câu hỏi về sắc tộc đã là cuộc điều tra được tiến hành năm 1946, mà đã tiết lộ tính không đồng nhất đáng kể ở Botswana. Trong khu bản địa Ngwato, chẳng hạn, chỉ 20 phần trăm dân cư tự nhận diện mình như người Ngwato thuần khiết; mặc dù đã có các bộ lạc Tswana khác hiện diện, đã cũng có nhiều nhóm không-Tswana mà ngôn ngữ đầu tiên của họ đã không là tiếng Setswana. Tính không đồng đều cơ bản này đã bị biến điệu đi bởi cả các chính sách của chính phủ sau độc lập và bởi các thể chế bao gồm tương đối của các bộ lạc Tswana theo cùng cách như tính không đồng đều ở Vương quốc Anh, chẳng hạn, giữa những người Anh và những người Welsh, đã bị biến điệu bởi nhà nước vương quốc Anh. Nhà nước Botswana đã làm cùng như thế. Từ khi độc lập, tổng điều tra dân số ở Botswana đã chẳng bao giờ hỏi về sắc tộc nữa, bởi vì ở Botswana mọi người đều là người Tswana.

Botswana đã đạt tốc độ tăng trưởng xuất sắc sau độc lập bởi vì Seretse Khama, Quett Masire, và Đảng Dân chủ Botswana đã lãnh đạo Botswana đi lên con đường của các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm. Khi các mỏ kim cương đi vào hoạt động trong các năm 1970, chúng đã không dẫn đến nội chiến, mà đã cung cấp một cơ sở tài khóa mạnh cho chính phủ sử dụng các nguồn thu này để đầu tư vào các dịch vụ công. Đã có rất ít khuyến khích để thách thức hay lật đổ chính phủ và nắm quyền kiểm soát nhà nước. Các thể chế chính trị bao gồm đã sản sinh ra sự ổn định chính trị và đã ủng hộ các thể chế kinh tế bao gồm. Theo một hình mẫu quen thuộc từ vòng thiện được mô tả trong chương 11, các thể chế kinh tế bao gồm đã làm tăng khả năng đứng vững và tính lâu bền của các thể chế chính trị bao gồm.

Botswana đã phá vỡ khuôn đúc bởi vì nó đã có khả năng nắm lấy bước ngoặt, sự độc lập hậu thuộc địa, và dựng lên các thể chế bao gồm. Đảng Dân chủ Botswana và các elite truyền thống, kể cả bản thân Khama, đã không thử tạo ra một chế độ độc tài hay dựng lên các thể chế khai thác mà đã có thể làm giàu cho chính họ với cái giá của toàn xã hội phải trả. Đấy một lần nữa đã là kết quả của sự tương tác giữa một bước ngoặt và các thể chế hiện tồn. Như chúng ta đã thấy, khác với hầu hết nơi khác ở châu Phi hạ-Sahara, Botswana đã có rồi các thể chế bộ lạc mà đã đạt mức độ nào đó của quyền lực tập trung và đã chứa các đặc tính đa nguyên quan trọng. Hơn nữa, nước này đã có các elite kinh tế những người bản thân họ đã có nhiều để được từ các quyền tài sản an toàn.

Không ít quan trọng hơn là, con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử đã ưu ái Botswana. Nó đã hết sức may bởi vì Seretse Khama và Quett Masire đã không phải là Siaka Stevens và Robert Mugabe. Họ đã làm việc siêng năng và chân thật để xây dựng các thể chế bao gồm dựa trên nền tảng của các thể chế bộ lạc của những người Tswana. Tất cả những thứ này đã làm cho có khả năng hơn rằng Botswana sẽ thành công đi con đường hướng tới các thể chế bao gồm, trong khi phần lớn phần còn lại của châu Phi hạ-Sahara đã thậm chí không thử đi, hay đã thất bại hoàn toàn.

KẾT THÚC SỰ BÓC LỘT Ở MIỀN NAM

Đó là ngày 1 tháng Mười Hai, 1955. Thành phố Montgomery, Alabama, lệnh bắt ghi thời gian xảy ra sự phạm tội là 6 giờ 06 phút chiều. James Blake, một lái xe bus, đã gặp rắc rối, ông đã gọi cảnh sát, và Officers Day và Mixon đã đến hiện trường. Họ đã ghi trong báo cáo của họ:

Chúng tôi đã nhận được một cuộc gọi đến người điều hành xe bus nói [xe] ông ta có một phụ nữ da màu ngồi ở khu vực dành cho người da trắng của xe bus, và không muốn quay về [khu vực cho người da đen]. Chúng tôi … cũng đã nhìn thấy cô ta. Người điều hành xe bus đã ký một trát cho cô ta. Rosa Parks (cf) bị buộc tội theo khoản 11 chương 6 của Điều lệ Thành phố Montgomery.

Rosa Parks đã phạm tội ngồi ở một khu vực của xe bus Cleveland Avenue được dành riêng cho những người da trắng, một tội dưới các luật Jim Crow của Alabama. Parks đã bị phạt mười dollar ngoài phí tòa án bốn dollar. Rosa Parks đã không phải là bất cứ ai. Cô đã là thư ký rồi của chi hội Montgomery của Hội Quốc gia cho sự Tiến bộ của những người Da Màu (National Association for the Advancement of Colored People, NAACP), mà từ lâu đã đấu tranh đòi thay đổi các thể chế của miền Nam Hoa Kỳ. Việc bắt cô đã kích động một phong trào quần chúng, phong trào Tẩy chay xe Bus Montgomery, được đạo diễn bởi Martin Luther King, Jr. Vào ngày 3 tháng Mười Hai, King và các lãnh tụ da đen đã tổ chức một cuộc tẩy chay xe bus được phối hợp, thuyết phục tất cả những người da đen rằng họ không nên đi bất cứ xe bus nào ở Montgomery. Cuộc tẩy chay đã thành công và nó đã kéo dài đến 20 tháng Mười Hai, 1956. Nó đã khởi động một quá trình mà đã lên đỉnh điểm trong quyết định của Tòa án Tối cao rằng các luật mà đã tách biệt các xe bus ở Alabama và Montgomery là vi hiến.

Cuộc Tẩy chay xe Bus Montgomery đã là một thời điểm mấu chốt trong phong trào các quyền dân sự ở miền Nam Hoa Kỳ. Phong trào này đã là phần của một chuỗi các sự kiện và những thay đổi mà cuối cùng đã phá vỡ khuôn đúc ở miền Nam và đã dẫn đến những thay đổi cơ bản của các thể chế. Như chúng ta đã thấy ở chương 12, sau Nội Chiến, các elite sở hữu đất ở miền nam đã tìm được cách để tái tạo các thể chế kinh tế và chính trị khai thác mà đã chi phối miền Nam trước Nội Chiến. Mặc dù các chi tiết của các thể chế này đã thay đổi – thí dụ, tình trạng nô lệ đã không còn có thể nữa – tác động tiêu cực lên các khuyến khích kinh tế và sự thịnh vượng ở miền Nam vẫn như thế. Miền Nam đã nghèo hơn một cách đáng kể so với phần còn lại của Hoa Kỳ.

Bắt đầu trong các năm 1950, các thể chế miền nam đã bắt đầu đưa khu vực này lên một quỹ đạo tăng trưởng nhanh hơn nhiều. Kiểu của các thể chế khai thác cuối cùng đã bị loại bỏ ở miền Nam Hoa Kỳ đã khác với các thể chế thuộc địa của Botswana trước độc lập. Kiểu của bước ngoặt mà đã khởi động quá trình của sự sụp đổ của chúng đã cũng khác nhau nhưng chia sẻ nhiều đặc điểm chung. Bắt đầu trong các năm 1940, những người mà đã chịu tác động của sự phân biệt và các thể chế khai thác ở miền Nam, những người như Rosa Parks, đã trở nên được tổ chức tốt hơn nhiều trong cuộc đấu tranh chống lại chúng. Đồng thời, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ và chính phủ liên bang cuối cùng đã bắt đầu can thiệp một cách có hệ thống để cải cách các thể chế khai thác ở miền Nam. Như thế một nhân tố chính tạo ra một bước ngoặt cho sự thay đổi ở miền Nam đã là sự trao quyền cho những người Mỹ da đen ở đó và sự kết thúc của sự cai trị không bị thách thức của các elite miền Nam.

Các thể chế chính trị miền nam, cả trước và sau Nội Chiến, đã có một logic kinh tế rõ ràng, không quá khác với chế độ Apartheid Nam Phi: để bảo đảm lao động rẻ mạt cho các đồn điền. Nhưng vào các năm 1950, logic này trở nên ít hấp dẫn hơn. Một mặt, khối lượng lớn người da đen di cư ra khỏi miền Nam đã đang diễn ra, một di sản của cả Đại Suy Thoái và Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai. Trong các năm 1940 và 1950, việc di cư này đã đạt trung bình một trăm ngàn người một năm. Trong khi đó, đổi mới công nghệ trong nông nghiệp, tuy chỉ được chấp nhận chậm chạp, đã làm giảm sự phụ thuộc của các chủ đồn điền vào lao động rẻ. Hầu hết lao động trong các đồn điền đã được dùng để hái bông. Trong năm 1950 hầu như tất cả bông miền nam đã vẫn được hái bằng tay. Nhưng việc cơ giới hóa hái bông đã làm giảm cầu đối với kiểu công việc này. Vào năm 1960, trong các bang chủ chốt Alabama, Louisiana, và Mississippi, hầu như một nửa sản xuất đã được cơ giới hóa. Hệt như những người da đen đã trở nên khó hơn để bị bẫy ở miền Nam, họ cũng đã trở nên không còn là không thể thiếu đối với các chủ đồn điền. Như thế đã có ít lý do cho các elite để chiến đấu quyết liệt nhằm duy trì các thể chế kinh tế khai thác cũ kỹ. Điều này, tuy vậy, đã không có nghĩa rằng họ vui lòng chấp nhận những thay đổi về thể chế. Thay vào đó, một cuộc xung đột kéo dài đã xảy ra sau đó. Một liên minh khác thường, giữa những người da đen miền nam và các thể chế liên bang bao gồm của Hoa Kỳ, đã tạo ra một lực hùng mạnh kéo ra khỏi sự khai thác miền nam và hướng đến các quyền chính trị và dân sự bình đẳng cho những người da đen miền nam, mà cuối cùng đã dỡ bỏ các rào cản đáng kể đối với sự tăng trưởng kinh tế ở miền Nam Hoa Kỳ.

Sự thúc đẩy quan trọng nhất cho sự thay đổi đã đến từ phong trào các quyền dân sự. Nó đã trao quyền cho những người da đen ở miền Nam mà đã đi đầu, như ở Montgomery, bằng cách thách thức các thể chế khai thác xung quanh họ, bằng cách đòi các quyền của họ, và bằng cách phản đối và huy động [quần chúng] nhằm đạt được chúng. Nhưng họ đã không đơn độc trong việc này, bởi vì miền Nam Hoa Kỳ đã không là một nước tách biệt và các elite miền Nam đã không có sự kiểm soát tự do, chẳng hạn như các elite Guatemala đã có. Như một phần của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, miền Nam đã phải tuân thủ Hiến pháp Hoa Kỳ và luật pháp liên bang. Sự nghiệp cho cải cách cơ bản ở miền Nam cuối cùng đã nhận được sự ủng hộ từ hành pháp, lập pháp và Tòa án Tối cao Hoa Kỳ một phần bởi vì phong trào các quyền dân sự đã có khả năng khiến cho tiếng nói của nó được lắng nghe ở bên ngoài miền Nam, và vì thế huy động được chính phủ liên bang.

Sự can thiệp liên bang để thay đổi các thể chế ở miền Nam đã bắt đầu với quyết định của Tòa án Tối cao trong năm 1944 rằng các cuộc bầu cử sơ bộ nơi chỉ có những người da trắng đã có thể ra ứng cử là vi hiến. Như chúng ta đã thấy, những người da đen đã bị tước quyền bầu cử chính trị trong các năm 1890 với việc sử dụng thuế thân và kiểm tra biết đọc biết viết (trang 351-357). Các việc kiểm tra này đã thường bị thao tác để phân biệt đối xử chống những người da đen, trong khi vẫn cho phép những người da trắng nghèo và mù chữ bầu cử. Trong một thí dụ nổi tiếng từ đầu các năm 1960, tại Louisiana một nguyên cáo da trắng được phán là biết đọc biết viết sau khi cho câu trả lời “FRDUM FOOF SPETGH – QUÊN SỰ ĐO NGÔNG NUẬN” cho một câu hỏi về hiến pháp bang. Quyết định của Tòa án Tối cao năm 1944 đã là một loạt đạn mở đầu trong cuộc đấu tranh dài hơn để mở cửa hệ thống chính trị cho những người da đen, và Tòa án đã hiểu tầm quan trọng của việc nới lỏng sự kiểm soát của người da trắng đối với các đảng chính trị.

Quyết định đó đã được tiếp theo bởi vụ kiện Brown đối lại Hội đồng Giáo dục năm 1954, trong đó Tòa án Tối cao đã phán quyết rằng việc các bang tách riêng các trường học và các địa điểm công cộng khác đã là vi hiến. Trong năm 1962 Tòa án đã đập tan cột trụ khác nữa của sự thống trị chính trị của các elite gia trắng: sự chia lô sai về lập pháp. Khi một cơ quan lập pháp bị chia lô sai (malapportioned) – như “các thành phố thối nát” ở nước Anh trước Đạo luật Cải cách thứ Nhất – một số vùng hay khu vực nhận được sự đại diện lớn hơn nhiều so với mức dựa trên phần của chúng về dân số liên quan. Sự phân lô sai ở miền Nam đã có nghĩa rằng các vùng nông thôn, trung tâm của elite đồn điền miền Nam, đã được đại diện quá đáng so với các vùng đô thị. Tòa án Tối cao đã chấm dứt tình trạng này năm 1962 với quyết định của nó trong vụ kiện Baker đối lại Carr, mà đã đưa vào tiêu chuẩn “một-cá-nhân, một-phiếu.”.

Nhưng tất cả các phán quyết từ Tòa án Tối cao đã ít có ý nghĩa nếu chúng không được thực thi. Trong các năm 1890, thực ra, việc pháp luật liên bang trao quyền bầu cử cho những người da đen miền nam đã không được thực hiện, bởi vì việc thực thi pháp luật ở địa phương đã nằm dưới quyền kiểm soát của elite miền nam và Đảng Dân chủ, và chính phủ liên bang đã vui lòng để tiếp tục với tình trạng này. Nhưng khi những người da đen bắt đầu đứng lên chống elite miền nam, pháo đài này của sự ủng hộ cho Jim Crow đã sụp đổ, và Đảng Dân chủ, được lãnh đạo bởi các yếu tố phi-niềm nam, đã quay sang chống sự tách biệt chủng tộc. Các đảng viên Dân chủ miền nam phản bội đã tập hợp lại dưới ngọn cờ của States’ Rights Democratic Party (Đảng Dân chủ giữ các Quyền của các Bang) và đã cạnh tranh trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1948. Ứng viên của họ, Strom Thurmond, đã thắng bốn bang và đã thu được ba mươi chín phiếu trong Đại hội Cử tri. Nhưng đấy đã rất xa lạ với sức mạnh của Đảng Dân chủ thống nhất trong chính trị quốc gia và phần giành được của các elite miền nam trong đảng đó. Chiến dịch của Strom Thurmond đã tập trung vào thách thức của ông ta đối với khả năng của chính phủ liên bang để can thiệp vào các thể chế của miền Nam. Ông đã tuyên bố lập trường của mình một cách mạnh mẽ: “Tôi muốn nói với các vị, các quý bà và các quý ông, rằng không có đủ binh lính trong quân đội để buộc nhân dân miền nam xóa bỏ sự tách riêng và nhận chủng tộc da đen vào các nhà hát của chúng ta, vào các bể bơi của chúng ta, vào nhà của chúng ta, và vào các nhà thờ của chúng ta.”

Hóa ra ông đã sai. Các phán quyết của Tòa án Tối cao đã có nghĩa rằng các cơ sở giáo dục miền nam đã phải bỏ sự tách riêng, kể cả Đại học Mississippi ở Oxford. Năm 1962, sau một cuộc chiến pháp lý dài, các tòa án liên bang đã phán quyết rằng James Meredith, một cựu binh không quân da đen, phải được nhận vào “Ole Miss [Đại học Mississippi].” Sự phản đối việc thực hiện phán quyết này đã được phối hợp bởi cái gọi là các Hội đồng Công dân, mà hội đồng đầu tiên đã được thành lập ở Indianola, Mississippi, năm 1954 để chống lại việc phá bỏ sự tách riêng của miền Nam. Thống đốc Bang Ross Barnett đã từ chối công khai sự dỡ bỏ tách riêng do tòa án ra lệnh trên truyền hình ngày 13 tháng Chín, tuyên bố rằng các đại học bang sẽ đóng cửa trước khi họ đồng ý dỡ bỏ sự tách riêng. Cuối cùng, sau nhiều thương lượng giữa Barnett và Tổng thống John Kennedy và Tổng Chưởng lý Robert Kennedy ở Washington, chính phủ liên bang đã can thiệp bằng vũ lực để thực hiện phán quyết này. Một ngày được định khi các cảnh sát trưởng sẽ đưa Meredith đến Oxford. Lường trước, những kẻ coi dân da trắng là tối cao đã bắt đầu tổ chức. Ngày 30 tháng Chín, một ngày trước khi Meredith đến hạn phải có mặt, các cảnh sát trưởng Hoa Kỳ đã tiến vào khu trường đại học và đã bao quanh tòa nhà hành chính chủ yếu. Một đám đông khoảng 2.500 đã đến để phản đối, và không lâu sau một cuộc nổi loạn đã nổ ra. Các cảnh sát trưởng đã sử dụng hơi cay để giải tán những người nổi loạn, nhưng không lâu sau họ đã ở dưới làn đạn. Vào 10:00 giờ đêm hôm đó, các binh lính liên bang tiến vào thành phố để khôi phục trật tự. Không bao lâu đã có 20.000 lính và 11.000 Vệ binh Quốc gia ở Oxford. Tổng cộng, 300 người đã bị bắt. Meredith đã quyết định ở lại trường, nơi được các cảnh sát trưởng Hoa Kỳ và 300 lính bảo vệ khỏi các mối đe dọa chết người, cuối cùng ông đã tốt nghiệp.

Luật pháp liên bang đã là mấu chốt trong quá trình cải cách thể chế ở miền Nam. Trong thời gian thông qua Đạo luật các Quyền Dân sự thứ nhất trong năm 1957, Strom Thurmond, khi đó là một thượng nghị sĩ, đã nói liên tục suốt hai mươi bốn giờ và mười tám phút để ngăn cản, hay chí ít để làm chậm, việc thông qua đạo luật. Trong lúc phát biểu ông đã đọc mọi thứ từ Tuyên ngôn Độc lập đến các cuốn danh bạ điện thoại khác nhau. Nhưng vô ích. Đạo luật 1957 đã lên đỉnh điểm trong Đạo luật các Quyền Dân sự năm 1964 đặt ra ngoài vòng pháp luật toàn bộ luật pháp và sự thực hành mang tính tách riêng của các bang. Đạo luật các Quyền Bầu cử năm 1965 đã tuyên bố các trắc nghiệm biết đọc biết viết, các loại thuế thân, và các phương pháp khác được dùng để tước đoạt quyền bầu cử của những người da đen miền nam là bất hợp pháp. Nó cũng đã mở rộng rất nhiều sự giám sát liên bang vào các cuộc bầu cử bang.

Tác động của tất cả những sự kiện này đã là một sự thay đổi đáng kể về các thể chế kinh tế và pháp lý ở miền Nam. Tại Mississippi, chẳng hạn, chỉ khoảng 5 phần trăm những người da đen đủ tư cách đã bầu trong năm 1960. Vào năm 1970 con số này đã tăng lên 50 phần trăm. Tại Alabama và Nam Carolina, nó đã tăng từ khoảng 10 phần trăm năm 1960 lên 50 phần trăm năm 1970. Các hình mẫu này đã làm thay đổi bản chất của các cuộc bầu cử, cả cho các chức vụ địa phương và quốc gia. Quan trọng hơn, sự ủng hộ chính trị từ Đảng Dân chủ chiếm ưu thế cho các thể chế khai thác phân biệt chống lại những người da đen đã bị xói mòn. Con đường đã mở ra cho một loạt những thay đổi về các thể chế kinh tế. Trước các cuộc cải cách thể chế của những năm 1960, những người da đen đã hầu như bị loại trừ khỏi các việc làm trong các nhà máy dệt. Trong năm 1960 chỉ khoảng 5 phần trăm nhân viên trong các nhà máy dệt miền nam đã là người da đen. Luật các Quyền Dân sự đã chấm dứt sự phân biệt này. Vào năm 1970 tỷ lệ này đã tăng lên 15 phần trăm; vào năm 1990 nó đã là 25 phần trăm. Sự phân biệt đối xử kinh tế chống lại những người da đen đã bắt đầu giảm đi, các cơ hội giáo dục cho những người da đen đã được cải thiện đáng kể, và thị trường lao động miền Nam đã trở nên cạnh tranh hơn. Cùng với các thể chế bao gồm những sự cải thiện kinh tế đã đến nhanh hơn ở miền Nam. Trong nă 1940 các bang miền nam đã chỉ có mức thu nhập bằng khoảng 50 phần trăm của mức thu nhập đầu người của Hoa Kỳ. Tình hình này đã bắt đầu thay đổi trong cuối các năm 1940 và các năm 1950. Vào năm 1990 khoảng cách này đã cơ bản biến mất.

Như ở Botswana, chìa khóa ở miền Nam Hoa Kỳ đã là sự phát triển của các thể chế chính trị và kinh tế bao gồm. Điều này đạt được bằng đặt cạnh nhau sự bất mãn ngày càng tăng giữa những người da đen chịu đau khổ dưới các thể chế khai thác miền nam và sự tan rã của sự cai trị độc đảng của Đảng Dân chủ ở miền Nam. Lại một lần nữa, các thể chế hiện tồn đã định hình con đường thay đổi. Trong trường hợp này, đã là mấu chốt rằng các thể chế miền nam ở bên trong các thể chế liên bang bao gồm của Hoa Kỳ, và điều này cuối cùng đã cho phép những người da đen miền nam để huy động chính phủ và các thể chế liên bang cho sự nghiệp của họ. Toàn bộ quá trình đã cũng được làm cho dễ hơn bởi sự thực rằng, với sự di cư ồ ạt của những người da đen ra khỏi miền Nam và sự cơ giới hóa sản xuất bông, các điều kiện kinh tế đã thay đổi cho nên các elite miền nam đã ít sẵn sàng để chiến đấu nhiều hơn.

TÁI SINH Ở TRUNG QUỐC

Đảng Cộng Sản dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông cuối cùng đã lật đổ các nhà Dân tộc Chủ nghĩa, do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo, trong năm 1949. Cộng hòa Nhân dân Trung hoa đã được công bố ngày 1 tháng Mười. Các thể chế chính trị và kinh tế được tạo ra sau 1949 đã hết sức khai thác. Về mặt chính trị, họ đề cao chế độ chuyên chế của Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Không tổ chức chính trị khác nào được cho phép ở Trung Quốc kể từ đó. Cho đến khi ông chết trong năm 1976, Mao đã hoàn toàn thống trị Đảng Cộng Sản và chính phủ. Đi cùng các thể chế chính trị khai thác, độc đoán này đã là các thể chế kinh tế hết sức khai thác. Mao ngay lập tức đã quốc hữu hóa đất và xóa bỏ mọi loại quyền tài sản trong một cú đột kích tàn ác. Ông đã sai hành quyết các địa chủ, cũng như những người khác mà ông cho rằng chống lại chế độ. Nền kinh tế thị trường đã cơ bản bị xóa bỏ. Nhân dân ở các vùng nông thôn đã dần dần được tổ chức vào các nông trại chung. Tiền và lương được thay bằng “công điểm,” mà có thể được trao đổi lấy hàng hóa. Hộ chiếu nội địa được đưa ra vào năm 1956 cấm đi lại mà không có sự cho phép thích hợp, nhằm tăng cường kiểm soát chính trị và kinh tế. Tất cả công nghiệp đã được quốc hữu hóa một cách tương tự, và Mao đã khởi động một cố gắng đầy tham vọng để thúc đẩy sự phát triển nhanh công nghiệp thông qua việc sử dụng các “kế hoạch năm năm,” làm theo mô hình Liên Xô.

Như với tất cả các thể chế khai thác, chế độ Mao đã cố gắng khai thác nguồn lực từ đất nước khổng lồ mà bây giờ ông kiểm soát. Như trong trường hợp của chính phủ Sierra Leone với hội đồng marketing của nó, Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã có độc quyền về bán sản phẩm, như gạo và ngũ cốc, mà đã được dùng để đánh thuế nặng các nông dân. Những cố gắng công nghiệp hóa đã biến thành Đại nhảy Vọt khét tiếng sau 1958 với sự diễn ra của kế hoạch năm năm lần thứ hai. Mao đã tuyên bố rằng sản lượng thép sẽ tăng gấp đôi trong một năm dựa trên các lò cao quy mô nhỏ ở “sân sau”. Ông đã đòi hỏi rằng trong mười lăm năm, Trung Quốc sẽ đuổi kịp Anh trong sản xuất thép. Vấn đề chỉ là đã không có cách khả thi nào để đạt các mục tiêu này. Để đạt được các mục tiêu của kế hoạch, phải tìm được sắt vụn, và nhân dân đã phải nung chảy chậu và xoong chảo của họ và thậm chí các công cụ nông nghiệp như cuốc và cày của họ. Những người lao động chăm sóc đồng ruộng đã sản xuất gang thép bằng phá hủy cày bừa của họ, và như thế phá hủy khả năng tương lai của họ để cấp thức ăn cho chính họ và cho đất nước. Kết quả đã là một nạn đói gây tai họa ở nông thôn Trung Quốc. Mặc dù các học giả tranh luận về vai trò của chính sách của Mao so với tác động của các đợt hạn hán xảy ra đồng thời, không ai nghi ngờ vai trò trung tâm của Đại nhảy Vọt trong gây ra cái chết của giữa hai mươi và bốn mươi triệu người. Chúng ta không biết chính xác bao nhiêu, bởi vì Trung Quốc dưới thời Mao đã không thu thập các số liệu mà ghi lại làm tư liệu các hành động tàn bạo. Thu nhập đầu người đã giảm khoảng một phần tư.

Một hệ quả của Đại nhảy Vọt đã là thành viên kỳ cựu của Đảng Cộng Sản, Đặng Tiểu Bình, một tướng rất thành công trong cách mạng, người đã lãnh đạo phong trào “chống hữu” gây ra sự hành quyết của nhiều “kẻ thù của cách mạng,” đã có một sự thay đổi tấm lòng. Tại một hội nghị ở Quảng Châu miền Nam Trung Quốc năm 1961, Đặng lập luận, “Không quan trọng liệu mèo là đen hay trắng, nếu nó bắt được chuột, nó là con mèo tốt.” Không quan trọng liệu các chính sách có vẻ cộng sản hay không; Trung Quốc đã cần các chính sách mà khuyến khích sản xuất sao cho nó có thể cho nhân dân của nó ăn.

Thế nhưng không lâu sau Đặng phải chịu đau khổ vì tính thực tiễn mới tìm thấy của ông. Ngày 16 tháng Năm, 1966, Mao tuyên bố rằng cách mạng bị đe dọa bởi những phần tử “tư sản” đang làm xói mòn xã hội cộng sản của Trung Quốc và muốn tái lập chủ nghĩa tư bản. Để đáp lại, ông đã tuyên bố Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản, thường được nhắc tới như Cách mạng Văn hóa. Cách mạng Văn hóa đã dựa trên mười sáu điểm. Điểm đầu tiên bắt đầu thế này:

Mặc dù tầng lớp tư sản đã bị lật đổ, nó vẫn thử dùng các ý tưởng, văn hóa, và các phong tục cũ, và các tập quán bóc lột các giai cấp để tha hóa quần chúng, thâu tóm đầu óc họ, và cố gắng để tổ chức việc quay trở lại. Giai cấp vô sản phải làm đúng điều ngược lại: nó phải đối đầu với mọi thách thức của tầng lớp tư sản trong lĩnh vực tư tưởng và sử dụng các ý tưởng mới, văn hóa, và các phong tục, và các tập quán của giai cấp vô sản để thay đổi quan điểm tư tưởng của toàn xã hội. Hiện tại mục tiêu của chúng ta là để đấu tranh chống lại và đè bẹp những người trong chính quyền những kẻ đi con đường tư bản chủ nghĩa, để phê phán và bác bỏ các nhà chức trách hàn lâm tư sản phản động và ý thức hệ của tầng lớp tư sản và của tất cả các giai cấp bóc lột khác và biến đổi nền giáo dục, văn học, và nghệ thuật và tất cả các phần khác của thượng tầng kiến trúc mà không phù hợp với cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa, để tạo thuận lợi cho sự củng cố và sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Không lâu sau Cách mạng Văn hóa, hệt như Đại nhảy Vọt, đã bắt đầu đánh đắm cả nền kinh tế lẫn nhiều sinh mệnh con người. Các Đơn vị Hồng Vệ Binh được thành lập khắp đất nước: các thành viên trẻ, nhiệt tình của Đảng Cộng Sản những người được sử dụng để thanh trừng các đối thủ của chế độ. Nhiều người bị giết, bị bắt, hay bị đi đày. Bản thân Mao đã bắt bẻ lại các mối lo ngại về quy mô bạo lực, nói rõ, “Cái ông Hitler này đã thậm chí còn tàn bạo hơn. Càng tàn bạo càng tốt, anh không nghĩ thế sao? Anh giết càng nhiều người, anh càng cách mạng.”

Đặng đã thấy mình được dán nhãn kẻ số hai đi con đường tư bản chủ nghĩa, và bị tù trong năm 1967, và sau đó bị đày đi tỉnh Giang Tây năm 1969, để làm việc trong một nhà máy máy kéo ở nông thôn. Ông đã được phục hồi năm 1974, và Mao đã được Thủ tướng Chu Ân Lai thuyết phục để bổ nhiệm Đặng làm phó thủ tướng thứ nhất. Ngay trong năm 1975, Đặng đã giám sát rồi việc soạn ba văn kiện đảng mà đã vẽ ra một hướng mới giả như chúng được chấp nhận. Chúng kêu gọi một sự phục hưng giáo dục bậc cao, một sự quay lại với các khuyến khích vật chất trong công nghiệp và nông nghiệp, và việc loại bỏ các phần tử “tả khuynh” khỏi đảng. Vào lúc đó, sức khỏe của Mao đã xấu đi và quyền lực đã ngày càng tập trung vào tay của những người rất tả khuynh mà Đặng Tiểu Bình đã muốn loại bỏ khỏi quyền lực. Vợ Mao, Giang Thanh, và ba cộng sự thân cận của bà, được gọi chung là Bè Lũ Bốn Tên, đã là những người ủng hộ mạnh mẽ của Cách mạng Văn hóa và sự đàn áp nảy sinh từ đó. Họ đã có ý định tiếp tục sử dụng bản kế hoạch này để vận hành đất nước dưới chế độ độc tài của Đảng Cộng Sản. Ngày 5 tháng Tư 5, một cuộc kỷ niệm tự phát tán dương cuộc đời của Chu Ân Lai ở Quảng trường Thiên An Môn đã biến thành một cuộc phản đối chống lại chính phủ. Bè Lũ Bốn Tên đã đổ lỗi cho Đặng về cuộc biểu tình, và một lần nữa ông bị tước hết mọi chức vụ và bị sa thải. Thay cho đạt được việc loại bỏ những kẻ khuynh tả, Đặng thấy mình bị những kẻ tả khuynh loại bỏ. Sau cái chết của Chu Ân Lai, Mao đã bổ nhiệm Hoa Quốc Phong làm quyền thủ tướng thay cho việc cất nhắc Đặng. Trong chân không quyền lực tương đối của năm 1976, Hoa đã có khả năng tích lũy rất nhiều quyền lực cá nhân.

Trong tháng Chín đã có một bước ngoặt: Mao chết. Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã dưới sự thống trị của Mao, và Đại nhảy Vọt và Cách mạng Văn hóa đã chủ yếu là các sáng kiến của ông. Với việc ra đi của Mao, đã có một chân không quyền lực thật sự, mà đã dẫn đến một cuộc đấu tranh giữa những người với các tầm nhìn khác nhau và các niềm tin khác nhau về các hệ quả của sự thay đổi. Bè Lũ Bốn Tên đã có ý định tiếp tục với các chính sách của Cách mạng Văn hóa như cách duy nhất để củng cố quyền lực của họ và của Đảng Cộng Sản. Hoa Quốc Phong đã muốn từ bỏ Cách mạng Văn hóa, nhưng ông đã không thể tách mình quá xa nó, bởi vì chính nhờ các ảnh hưởng của nó mà ông đã thăng tiến trong đảng. Thay vào đó, ông đã chủ trương quay lại với một tầm nhìn cân đối hơn của Mao, mà ông đã nói vắn tắt trong “Hai Phàm là,” như tờ Nhân dân Nhật báo, tờ báo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, đã diễn đạt trong năm 1977. Hoa lập luận, “Chúng ta sẽ kiên quyết giữ vững bất cứ quyết định chính sách nào mà Chủ tịch Mao đã đưa ra, và kiên định đi theo bất cứ chỉ thị nào mà Chủ tịch Mao đã truyền đạt.”

Đặng Tiểu Bình đã không muốn hủy bỏ chế độ cộng sản và thay thế nó bằng các thị trường bao gồm hơn Hoa đã làm một chút nào. Ông cũng đã là phần của cùng nhóm những người được cách mạng cộng sản đưa lên nắm quyền lực. Nhưng ông và những người ủng hộ ông đã nghĩ rằng sự tăng trưởng kinh tế đáng kể có thể đạt được mà không gây nguy hiểm cho sự kiểm soát chính trị của họ: họ đã có một mô hình tăng trưởng dưới các thể chế chính trị khai thác mà sẽ không đe dọa quyền lực của họ, bởi vì nhân dân Trung Quốc đã cần kinh khủng mức sống được cải thiện và bởi vì tất cả sự chống đối có ý nghĩa đối với Đảng Cộng Sản đã bị xóa sạch trong triều đại của Mao và Cách mạng Văn hóa. Để đạt điều này, họ đã muốn từ chối không chỉ Cách mạng Văn hóa mà cả nhiều trong số di sản thể chế Maoist. Họ đã nhận ra rằng sự tăng trưởng kinh tế sẽ là có thể chỉ với các bước đáng kể theo hướng các thể chế kinh tế bao gồm. Như thế họ đã muốn cải cách nền kinh tế và nâng đỡ vai trò của các lực lượng thị trường và các khuyến khích. Họ cũng đã muốn mở rộng phạm vi của quyền sở hữu tư nhân và giảm vai trò của Đảng Cộng Sản trong xã hội và sự cai quản, thoát khỏi các khái niệm như đấu tranh giai cấp. Nhóm của Đặng đã cũng mở cửa cho đầu tư nước ngoài và thương mại quốc tế, và đã muốn theo đuổi một chính sách năng nổ hơn nhiều về hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, đã có những giới hạn, và việc xây dựng các thể chế kinh tế bao gồm thật sự và sự làm giảm đi sự kìm kẹp mà Đảng Cộng Sản đã có lên nền kinh tế đã không thậm chí là các lựa chọn.

Điểm ngoặt đối với Trung Quốc đã là quyền lực của Hoa Quốc Phong và sự sẵn sàng của ông để sử dụng nó chống lại Bè Lũ Bốn Tên. Trong vòng một tháng sau khi Mao chết, Hoa đã bố trí một cú chống lại Bè Lũ Bốn Tên, bắt tất cả họ. Rồi ông đã phục hồi chức cho Đặng trong tháng Ba 1977. Đã chẳng có gì là không thể tránh khỏi hoặc về sự diễn tiến này của các sự kiện hay về các bước quan trọng tiếp theo, mà đã do bản thân Hoa bị Đặng Tiểu Bình khôn khéo đánh bại về mặt chính trị. Đặng đã khuyến khích sự phê phán công khai Cách mạng Văn hóa và đã bắt đầu bổ nhiệm vào các vị trí then chốt trong Đảng Cộng Sản ở mọi cấp những người, giống ông, đã chịu đau khổ trong thời kỳ này. Hoa đã không thể từ chối Cách mạng Văn hóa, và việc này đã làm yếu ông. Hoa cũng đã là một người mới đến đối với các trung tâm quyền lực, và ông đã thiếu mạng lưới quan hệ và các mối quan hệ phi chính thức mà Đặng đã xây dựng trong nhiều năm. Trong một loạt bài phát biểu, Đặng đã bắt đầu phê phán các chính sách của Hoa. Trong tháng Chín 1978, ông đã công khai tấn công Hai Phàm Là, lưu ý rằng thay cho để bất cứ cái gì Mao đã nói quyết định chính sách, cách tiếp cận đúng đã là “tìm kiếm chân lý từ các sự thực.”

Đặng cũng đã bắt đầu một cách tài ba để dùng sức ép công khai đối với Hoa, mà đã được phản ánh một cách mạnh mẽ nhất trong phong trào Bức Tường Dân chủ trong năm 1978, trong đó người dân đã dán các lời phàn nàn về đất nước lên một bức tường ở Bắc Kinh. Trong tháng Bảy 1978, một trong những người ủng hộ Đặng, Hồ Kiều Mộc, đã trình bày một số nguyên lý cơ bản của cải cách kinh tế. Các nguyên lý này bao gồm các quan niệm rằng các hãng phải được trao quyền hạn và sự chủ động lớn hơn để đưa ra các quyết định sản xuất riêng của chúng. Giá cả phải đưa cung và cầu lại với nhau, hơn là chỉ được chính phủ định ra, và sự điều tiết nhà nước của nền kinh tế nói chung nên giảm đi. Đấy là là những gợi ý cấp tiến, nhưng Đặng đang có được ảnh hưởng. Trong các tháng Mười Một và Mười Hai 1978, Hội nghị toàn thể Thứ Ba của Ban Chấp Hành Trung Ương Khóa Mười Một đã tạo ra bước đột phá. Ngược với sự phản đối của Hoa, đã quyết định rằng, từ nay trở đi, tiêu điểm của đảng sẽ không là đấu tranh giai cấp mà là hiện đại hóa kinh tế. Hội nghị toàn thể đã công bố các thí điểm thăm dò với một “hệ thống trách nhiệm hộ gia đình – khoán hộ” trong một số tỉnh, mà đã là một cố gắng để đẩy lùi nông nghiệp tập thể và đưa những khuyến khích kinh tế vào canh tác. Vào năm tiếp theo, Ban Chấp hành Trung Ương đã ghi nhận tính trung tâm của quan niệm “chân lý từ các sự thực” và tuyên bố Cách mạng Văn hóa đã là một tai họa lớn đối với nhân dân Trung Quốc. Suốt thời kỳ này, Đặng đã bảo đảm việc bổ nhiệm những người ủng hộ của riêng ông vào các vị trí quan trọng trong đảng, quân đội, và chính phủ. Mặc dù ông đã phải hành động chậm chống lại những người ủng hộ Hoa trong Ban Chấp hành Trung Ương, ông đã tạo ra các cơ sở song song của quyền lực. Vào năm 1980 Hoa đã bị buộc phải từ chức thủ tướng, được thay thế bởi Triệu Tử Dương. Vào năm 1982 Hoa đã bị loại khỏi Ban Chấp hành Trung Ương. Nhưng Đặng đã không dừng lại ở đây. Tại Đại Hội lần thứ Mười Hai của Đảng năm 1982, và sau đó trong Hội nghị Đảng Toàn Quốc tháng Chín 1985, ông đã đạt được sự cải tổ lại hoàn toàn ban lãnh đạo đảng và các cán bộ cấp cao. Những người trẻ hơn nhiều, có đầu óc cải cách đã tham gia. Nếu so sánh 1980 với 1985, thì vào năm sau, hai mươi mốt trong số hai mươi sáu ủy viên Bộ Chính trị, tám trong số mười một thành viên Ban Bí Thư Đảng Cộng Sản, và mười trong số mười tám phó thủ tướng đã được thay.

Bây giờ vì Đặng và các nhà cải cách đã hoàn thành cuộc cách mạng chính trị của họ và đã kiểm soát nhà nước, họ đã tung ra một loạt những thay đổi thêm về các thể chế kinh tế. Họ đã bắt đầu trong nông nghiệp: Vào năm 1983, theo các ý tưởng của Hồ Kiều Mộc, hệ thống khoán hộ, mà đã cung cấp các khuyến khích kinh tế cho các nông dân, đã được chấp nhận một cách phổ quát. Trong năm 1985 việc nhà nước mua ngũ cốc bắt buộc đã bị từ bỏ và được thay thế bởi một hệ thống của các hợp đồng tự nguyện hơn. Sự kiểm soát hành chính giá cả nông nghiệp đã được nới lỏng rất nhiều trong năm 1985. Trong nền kinh tế đô thị, các doanh nghiệp nhà nước đã được trao nhiều quyền tự trị hơn, và mười bốn “thành phố mở” đã được nhận diện và được trao khả năng để thu hút đầu tư nước ngoài.

Chính nền kinh tế nông thôn đã cất cánh đầu tiên. Việc đưa ra các khuyến khích đã dẫn đến một sự tăng lên đột ngột về năng suất nông nghiệp. Vào năm 1984 sản lượng ngũ cốc đã cao hơn sản lượng của năm 1978 một phần ba, mặc dù ít người hơn đã tham gia vào nông nghiệp. Nhiều người đã chuyển vào làm việc trong các ngành công nghiệp mới ở nông thôn, trong cái gọi là các Doanh Nghiệp Hương Trấn. Các doanh nghiệp này đã được cho phép phát triển ngoài hệ thống kế hoạch công nghiệp nhà nước sau 1979, khi được chấp nhận rằng các hãng mới đã có thể tham gia và cạnh tranh với các hãng do nhà nước sở hữu. Từ từ các khuyến khích kinh tế cũng đã được đưa vào khu vực công nghiệp, đặc biệt vào hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, mặc dù tại giai đoạn này đã không có ám chỉ nào về tư nhân hóa, mà đã phải đợi đến giữa các năm 1990.

Sự tái sinh của Trung Quốc đến với một sự dịch chuyển quan trọng khỏi một trong những tập khai thác nhất của các thể chế kinh tế và hướng tới các thể chế bao gồm hơn. Các khuyến khích thị trường trong nông nghiệp và công nghiệp, rồi sau đó tiếp theo bởi đầu tư nước ngoài và công nghệ, đặt Trung Quốc lên một con đường tăng trưởng kinh tế nhanh. Như chúng ta sẽ thảo luận thêm trong chương tiếp theo, đấy là sự tăng trưởng dưới các thể chế chính trị khai thác, cho dù chúng không khắc nghiệt như dưới Cách mạng Văn hóa và cho dù các thể chế kinh tế đã trở nên một phần bao gồm. Tất cả điều này không làm giảm đi mức độ mà những thay đổi về các thể chế kinh tế ở Trung Quốc đã là căn bản. Trung Quốc đã phá vỡ khuôn đúc, cho dù nó đã không biến đổi các thể chế chính trị của nó. Như ở Botswana và miền Nam Hoa Kỳ, những thay đổi cốt yếu đã đến trong thời gian một bước ngoặt – trong trường hợp của Trung Quốc, tiếp theo cái chết của Mao. Chúng đã cũng tùy thuộc, thực ra hết sức tùy thuộc ngẫu nhiên, vì đã chẳng có gì là không thể tránh khỏi về Bè Lũ Bốn Tên thua cuộc chiến quyền lực; và nếu giả như họ đã không, thì Trung Quốc đã không trải qua sự tăng trưởng kinh tế kéo dài mà nó đã thấy trong ba mươi năm vừa qua. Nhưng sự tàn phá và sự đau khổ con người, mà Đại nhảy Vọt và Cách mạng Văn hóa đã gây ra, đã tạo ra cầu đủ cho sự thay đổi mà Đặng Tiểu Bình và các đồng minh của ông đã có thể thắng cuộc đấu tranh chính trị.

BOTSWANA, TRUNG QUỐC, và miền Nam Hoa Kỳ, hệt như Cách mạng Vinh quang ở nước Anh, Cách mạng Pháp, và Minh Trị Duy Tân ở Nhật Bản, là những minh họa sống động rằng lịch sử không phải là định mệnh. Bất chấp vòng luẩn quẩn, các thể chế khai thác có thể được thay thế bởi các thể chế bao gồm. Nhưng nó chẳng tự động cũng không dễ. Một sự hợp lưu của các nhân tố, đặc biệt một bước ngoặt gắn liền với một liên minh rộng của những người thúc đẩy cho cải cách hay các thể chế hiện tồn thuận lợi khác, thường là cần thiết cho một quốc gia để đi những bước dài hướng tới các thể chế bao gồm hơn. Ngoài ra sự may mắn nào đó là chìa khóa, bởi vì lịch sử luôn luôn diễn ra theo cách tùy thuộc ngẫu nhiên.

Người dịch : Nguyễn Quang A

Nguồn: Why Nations Fail

THE ORIGINS OF POWER, PROSPERITY, AND POVERTY

Daron Acemoglu and Jemes A. Robinson

Crown Publishers ● New York

 


 

 


 

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114529022

Hôm nay

269

Hôm qua

2334

Tuần này

21295

Tháng này

215718

Tháng qua

0

Tất cả

114529022