Đất Nghệ

Một bài phú về Truyện Kiều

Là người yêu thích Truyện Kiều, trong dịp về thăm quê tôi đến thăm một nhà giáo cao niên dạy văn trước Cách mạng Tháng 8, năm nay đã trên 90 tuổi hiện sống ở Nghệ An, cụ có cung cấp cho tôi một bài phú về Truyện Kiều chép trong cuốn sổ tay đã cũ. Bài văn khoảng 3-4 trang đánh máy, nhưng nội dung tóm tắt đầy đủ diễn biến của Truyện Kiều, hình thức viết theo thể phú - một thể loại văn học của Trung Quốc có vần, có đối đã du nhập vào Việt Nam khá sớm.

Điều đặc biệt ở bài phú này là tác giả đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn những ngữ liệu có sẵn trong Truyện Kiều mà không hề gượng ép nên rất hấp dẫn. Tôi xin giới thiệu để các bạn cùng thưởng thức và mong các vị tìm hộ xuất xứ của bài văn vì người cung cấp không biết ai là tác giả và cũng không nhớ chép ở nguồn nào.

Bài phú Truyện Kiều

Kể từ lúc: ngọc chưa cài, trâm chưa giắt.

Tài sắc gồm hai; phong lưu rất mực.

So tay bút pháp, Lan Đình mấy thiếp nào thua;

Lầu bậc cung thương, Hồ cầm một trương ăn đứt.

Sắc khuynh quốc, hoa thua liễu kém, nắng mưa gìn giữ xiết bao!

Tuần cập kê, trướng rủ màn che, ong bướm đi về cũng mặc.

Tới tiết Thanh minh:

Quần áo thướt tha: ngựa xe giong ruổi.

Trở ra về gặp chàng Kim Trọng, mặn mà thay lan cúc cả hai bên!

Thoắt chiêm bao thấy ả Đạm Tiên, đau đớn nhẽ nhân duyên cùng một hội!

Lênh đênh mặt sóng, đã đành phận gái truân chiên:

Lắt léo cánh thoa, mới biết lòng trời run rủi.

Trên tường gấm, ơn lòng quân tử, mở quạt đổi trao;

Dưới lầu son, vắng mặt tri âm, vò tơ bối rối.

May làm sao: thanh vắng một mình; hôm nay được buổi.

Cùng nhau vàng đá mấy lời; dám tiếc tóc tơ một mối.

Thôi vẫn tưởng: chỉ hồng lá thắm ấy là duyên;

Nào có biết: nhị rữa vàng phai đâu đến nỗi.

Bỗng phải tai bay vạ gió: quản chi ngọc trắng cát lầm.

Ơn chín chữ mong đền gang tấc; thân nghìn vàng đổi lấy ba trăm.

Chẳng ngờ gã Giám Sinh, phong tình là đứa:

Chung lưng con già Tú, buôn bán quanh năm.

Kiếp má hồng toan trả trời xanh, sực thấy mấy câu thần mộng;

Doành nước biếc nổi cồn sóng bạc, thêm thương đến khách tri âm.

Ai oán nhẽ! ngâm câu tuyệt diệu;

Lạ lùng thay! có tiếng họa ngâm.

Thằng Sở Khanh! ngỡ là cùng mạch thư hương; vẫn chắc ba sinh duyên
nợ.

Nói ngon, nói ngọt, rằng ra tay phải cậy anh hùng;

Dầu rủi, dầu may, thử nhắm mắt mà xem tạo hóa.

Cùng nhau trên ngựa một điều; thoắt rẽ dây cương đôi ngả.

Giây phút tớ thầy thẳng tới, già Tú ơi! vùi dập sao nỡ đang tay!

Khéo đâu nhủ bảo đến lời, Sở Khanh hỡi! nông nỗi nước này cũng lạ!

Kiếp phong trần đã đến thế thì thôi;

Nợ anh yến phải lấy thân mà trả.

Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa; cho mê mẩn đời, cho lăn lóc đá.

Bấy lâu dạn mặt, rặt phường quyến gió rủ mây;

Hai chữ đồng tâm, mấy kẻ ghi lòng tạc dạ.

Có chàng Thúc Sinh:

Thanh khí lẽ hằng; hoa khôi tiếng mộ.

Ngày xuân mưa gió càng nồng; đêm xuân đi về lắm độ.

Khi rượu khi cờ; khi trăng, khi gió.

Khi gọi canh quyên; khi tàn bóng nhớ.

Mận đào khi trước lân la; vàng đá về sau gắn bó.

Chút e phận cát, rồi ra phấn lạt hương phai;

Lại sợ nhà thông, cớ sao hoa tường liễu ngõ?

Há rằng không suy trước nghĩ sau, song đã trót bể thề non trỏ.

Từ đấy: tạ thần mày trắng; giã chốn lầu xanh.

Thôi hẳn chắc phen này đành phận: chẳng như xưa lại phải thương mình.

Sắt cầm vừa dạo nửa năm, nhà xuân chợt tới;

Phong ba nổi ngay một trận, cửa phủ đơn trình.

Muôn đội ơn trên, tình lý hai bên vẹn cả;

Lại nhờ lượng bể, phong ba dẹp nỗi bất bình.

Luận cho đoàn tụ; sửa đạo gia đình.

Vui lắm thay! trúc mai sum họp; lan huệ thơm tho.

Suốt một năm ròng, rượu sớm cờ trưa biết mấy;

Tin nhà ngày vắng, đáy sông rốn bể khôn dò.

Xin kíp lại nhà, tình ý ta đây được biết:

Thôi đừng lần lữa, tăm hơi ai kẻ giữ cho.

Quan hà một chén tiễn đưa, tin mừng xin đợi;

Dâu xanh mấy ngàn đã khuất, mối thảm ai vò.

Từ ngày: pha phôi dặm liễu, não người cữ gió tuần mưa;

Vò võ song mai, tủi phận chăn đơn gối chiếc.

Trước Phật đường hương vừa đốt cháy, chưa kịp khấn cầu:

Lũ ác nhân đâu đã kéo vào, làm cho mê mệt.

Huyện Tích đem về; tên hoa dạy ép.

Phận hầu giữ phận, quản bao tóc rối da chì;

Thôi thế thời thôi, sá nghĩ hoa tàn ngọc nát.

Nghĩ lúc cửa người đầy đọa: thiên hương quốc sắc mà chi;

Nào hay chốn cũ ra vào: địa ngục thiên đàng có biết.

Phút thấy: trong nhà truyền gọi; trên tiệc đứng khuyên.

Mặt đà rõ mặt; nhìn chẳng dám nhìn.

Ghê gớm thay! thầy tớ thằng Ưng lập mưu gian ác;

Mẹ con nhà Hoạn rất mực khôn ngoan.

Vị gì chút phận hồng nhan, làm cho đau đớn;

May lại nương thần Bồ Tát, rũ vết trần duyên.

Bể thảm hầu vơi tấc dạ; trăng đầu đứng đã hai phen.

Chàng Thúc lẩn ra, thở thở than than, tình ấy muôn cam chịu bạc;

Tiểu thư chợt đến, cười cười nói nói, lạ cho cái giống nhà ghen.

Lửa dấm lại càng thêm tội; mưa sa sá nghĩ phận hèn.

Đêm hôm ấy: qua tường hoa; lần điếm cỏ.

Ngàn dâu vừa sáng, xa trông Chiêu ẩn chữ bài;

Rừng quế dời chân, động tiếng trụ trì then ngỏ.

Chuông khánh trình qua; gót đầu nói rõ.

Vãi Giác Duyên thật dạ cả lo;

Dạy nhà Bạc đem về tạm trú.

Cũng tưởng dâng hoa cúng quả, quen lối đi về;

Nào hay bán phấn buôn hương, bợm già cũng tổ.

Này chàng Bạc cũng trong thân thích, vốn nhà buôn bán châu Thai;

Rước kiệu hoa vào lạy gia đường, mới biết đồng môn mẹ Tú.

Má phấn đã đen quá nửa, ghen mãi chưa thôi;

Trời xanh riêng bạc chi ai, gỡ ra cực khổ!

Bỗng có: người Việt Đông; đấng anh hùng.

Đưa thiếp đỏ; đến lầu hồng.

Liếc mắt cùng nhau, há phải những phường trăng gió;

Tấm lòng đã chắc, có phen được thấy mây rồng.

Lửa hương duyên bén chửa bao, vó câu thẳng ruổi;

Non nước lời kia dặn lại, tin nhạn ngày mong.

Phút thấy: hoa bay phượng múa; trống nổi cờ giong.

Cúi đầu mười vị tướng quân, rằng vâng lệnh chỉ;

Nối gót năm ba thể nữ, chải chuốt hình dong.

Kíp truyền phượng liễn; về chốn loan phòng.

Vinh hoa bõ lúc; ân oán đền xong.

Cậy sức Từ công, động địa kinh thiên, tính đốt thêm năm năm chẵn;

Tin lòng Tôn Hiến, giải binh thúc giáp,nào ngờ một phút như không.

Chua xót thay! hai chữ cương thường, hằng ghi tấc dạ;

Một niềm trung hiếu, mang tiếng phụ lòng.

Thôi thời thôi: này cái hồng nhan; này cha cái kiếp!

Trầm luân nào phận, mừng mặt nhau chưa giã chốn sông Mê;

Tế độ nhờ tay, bừng mắt dậy mới hay thuyền vãi Giác

Bẻ lau vạch lối trở ra về; dưa muối chay lòng y thuở trước.

Kệ kinh lại tay lần miệng đọc, từ bi nhờ đức Thế tôn;

Quả hoa thời sớm cúng tối dâng, phổ độ chiếc thân lưu lạc.

Mới hay: đạo trời báo phục; phép Phật nhiệm mầu.

Mười lăm năm sóng vỗ bèo trôi, dầu dãi xiết bao nạn trước;

Nghìn muôn dặm non cao nước biếc, êm đềm nào chắc duyên sau.

Mau chân sư trưởng người về, một nhà kéo đến;

Lên tiếng Trạc tuyền nàng hỡi, này khách nơi đâu.

Xúm quanh nở mặt nở mày, còn ngờ giấc mộng;

Kể lể chân tơ kẽ tóc, riêng tưởng bấy lâu.

Này chồng, này mẹ, này cha, hoan hỉ lắm, thực tâm thành đã thấu;

Giã sư, giã chiền, giã cảnh, tạ từ rồi xin tái hợp cùng nhau.

Bấy giờ: về chốn huyện nha; truyền bày tiệc rượu.

Dở say dở tỉnh, em Thúy Vân riêng nói bên tình;

Có biến có thường, chàng Kim Trọng nặng bề chữ hiếu.

Tình sau nghĩa trước, thấp cao người dạy phải vâng;

Bướm cũ hoa xưa, lai láng tình chung nào thiếu.

Tai nạn xưa trút sạch làu làu: danh tiết đấy gương trong leo lẻo.

Lạy Phật thung huyên đôi khóm, việc gia đình được định tỉnh thần hôn;

Ơn trời hòe quế một sân, nền phúc ấm vẫn nhân bồi nghĩa triệu.

Uẩy uẩy hồng quần những khách, gương đấy thử soi.

Này này hậu phúc ở ta, tu sao cho khéo.

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, Số 1(98) 2010; Tr. 80 - 83)

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114521014

Hôm nay

291

Hôm qua

2291

Tuần này

22055

Tháng này

218953

Tháng qua

121009

Tất cả

114521014