
Nhà Văn thánh tổng Cát Ngạn
Lịch sử văn chỉ bia tổng Cát Ngạn.
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, huyện Thanh Chương có tất cả 5 tổng: Cát Ngạn; Đại Đồng; Võ Liệt; Bích Hào và Xuân Lâm. Theo dòng chảy sông Lam thì Cát Ngạn là tổng trên cùng. Tổng Cát Ngạn có các xã: Cát Ngạn, La Mạc, Hạnh Lâm, Cao Điền, Đức Nhuận, Tiên Hội, Thanh Liêu và các làng biệt triện: Lương Khế, Nhuận Trạch, Yên Đình, Văn Ba. Nay là các xã: Hạnh Lâm, Tam Đồng và Cát Ngạn, tỉnh Nghệ An.
Đây là vùng đất có tinh thần hiếu học. Ngày trước, Tổng có Văn Hội. Hội sinh hoạt đều đặn, hàng năm có tổ chức tế thờ Khổng Tử và các bậc tiên hiền, tiên nho của tổng. Các buổi tế lễ đều rất long trọng; có bình thơ, chào mừng, chúc tụng các vị tân khoa. Hội có quỹ do hoa lợi đất đai hiến tặng của các vị chức sắc và người đậu đạt. Đặc biệt hội có 3 tấm bia đá khắc tên các vị đại khoa, trung khoa, tú tài và sinh đồ. Nhà bia đặt tại nơi trang trọng trong khuôn viên Nhà Văn thánh tổng (Nhân dân trong vùng gọi tắt là Nhà thánh tổng). Ban đầu Nhà Văn thánh được đặt tại làng Cát Ngạn (nay thuộc xã Cát Ngạn), về sau được di chuyển về xã Đức Nhuận (nay thuộc xã Tam Đồng).
Nhà Văn thánh toạ lạc trên một ngọn đồi, xa khu dân cư, cao hơn đường làng khoảng 10m. Tuy nhiên, sau này, xã Thanh Liên (trước đây) đã chia đất cho 5 anh em người họ Võ làm nhà ở. Lúc này Nhà Văn thánh đã không còn nên các anh em họ Võ đã dựng nhà thờ họ trên nền đất cũ của Nhà Văn thánh và giữ lại khuôn viên 3 tấm Văn bia bằng đá xanh, diện tích khoảng 4m2. Việc làm đó chứng tỏ Nhân dân sở tại và gia đình họ Võ đã có ý thức tôn trọng các di tích cổ của cha ông.
Các tấm bia “Cát Ngạn tổng Văn chỉ bia” được điêu khắc rất tinh vi, đẹp đẽ, trang nghiêm như bia Văn chỉ ở Văn Miếu Hà Nội và rất may vẫn còn tươi nét chữ. Bia rộng 0,66m cao 1,66m, đứng trên đế hình con rùa cao khoảng 10cm. Ba tấm bia đặt theo hình chữ U mặt hướng ra sông Giăng.
Các nội dung văn bia chuyển tải

Trong 3 tấm văn bia có 2 tấm đặt 2 bên được khắc 4 mặt ghi danh sách các vị Sinh đồ thời Lê, Tú tài thời Nguyễn. Riêng tấm giữa khắc 2 mặt: Mặt trước khắc danh sách 4 vị đậu đại khoa, 19 vị đậu trung khoa, tất cả 23 vị. Gồm:
Các vị đậu đại khoa:
1. Đinh Bộ Cương: Thôn Cao Môn, Đại khoa năm Đinh Hợi (1467), Chính trực thịnh tuyển đệ nhị danh sĩ chí Hình bộ Thượng Thư, phong tặng thành hoàng Đức Nhuận.
2. Nguyễn Ngọc Dật: Thôn Đạo Ngạn, làng Cát Ngạn, đậu Thám hoa khoa Bính Ngọ (1546) Nguyên Hòa thứ 14.
3. Nguyễn Thế Bình: Xã Cát Ngạn, đệ tam giáp đồng Tiến sĩ Cảnh Hưng Ất Mùi (1775), chí Đốc đồng, sắc phong thành hoàng Cát Ngạn.
4. Đinh Nhật Thận: Thôn Tiên Hội xã Thanh Liêu - đệ tam giáp đồng Tiến sĩ - Mậu Tuất (1838), triều Minh Mệnh.
Ngoài 4 vị đại khoa, bia khắc tên 19 vị đậu trung khoa (cử nhân), nhiều nhất là các xã Đức Nhuận và Cát Ngạn.
Mặt sau của tấm bia giữa có 7 dòng đầu khắc ghi ruộng, vườn, đất ở thuộc xã Đức Nhuận, Tiên Hội, La Mạc, Cao Điền, Thanh Liêu thuộc sở hữu của Văn hội dùng vào việc tế tự (tổng cộng 12 mẫu 2 sào Trung bộ). Tiếp theo là những dòng “lạc khoản”, tạm dịch: Văn chỉ tổng Cát Ngạn từ năm Cảnh Hưng 25 (1764) đã có bia nhưng ghi chưa đầy đủ các khoa thi và công đức như lần này. Nay nhờ có Hoàng triều phổ ký nên tính danh sư trạng thuộc triều Nguyễn đã rõ, duy tiền triều (triều Lê) lâu đời thì khó khảo. Nhưng việc ghi chép không thể bỏ qua. Di phả, hiệu sinh, sinh đồ ... cùng ruộng đất (thuộc Văn chỉ) đều phải lưu lại, kẻo để lâu ngày mất mát. Việc lập bia khỏi quên điển tự, lưu danh để báo đáp thịnh tâm. Tháng quý thu (tháng 9) Ất Sửu, năm Khải Định thứ 10 (1925). Cát Ngạn tổng Văn Hội đồng tổng kính cẩn ghi vào bia; La Mạc xã - Cử nhân Võ Văn Tộ và Đức Nhuận xã - Cử nhân Nguyễn Phượng Lãm phụng giám tự (trông coi việc kiến tạo); Đức Nhuận xã - Tú tài thưởng Hàn Lâm Viện đãi chiếu Nguyễn Xuân Doãn, phụng thư (viết chữ). Thợ khắc đá, thôn Trường Thịnh Nguyễn Ngọc Nghi, phụng khắc.
Bia thứ 2 là tấm bia bên phải khắc ghi họ tên 61 vị đậu Tú tài thời Nguyễn.
Bia thứ 3 là tấm bia bên trái khắc họ, tên các sinh đồ thời Lê trong tổng: tất cả có 230 người.
Nói thêm về các vị đại khoa được khắc trên văn bia
Như đã nói ở trên, văn chỉ bia tổng Cát Ngạn đã giành vị trí trang trọng nhất để khắc ghi tiểu sử tóm tắt của 4 vị đại khoa. Tuy nhiên, do dung lượng có hạn nên những dòng này chỉ là tóm tắt. Để mọi người hiểu rõ hơn về họ, chúng tôi xin dẫn giải thêm một số tư liệu vì họ là những người rất nổi tiếng (ghi theo thứ tự thời gian).
Người thứ nhất: “Tiến sỹ Đinh Bô Cương, còn được đọc là Đinh Bộ Cương, quê ở làng Cao Môn, tổng Cát Ngạn, nay là xã Thanh Liên, huyện Thanh Chương, Nghệ An, đậu Tiến sỹ năm Đinh Hợi (1467) thăng đến chức Hình bộ Thượng Thư, cuối đời phong tặng Thành hoàng Đức Nhuận”. Ông làm quan trải hai đời Vua Lê Thánh Tông và Lê Hiến Tông. Trong “Thanh Chương huyện chí”, Hoàng giáp Bùi Dương Lịch viết về Đinh Bộ Cương: "nói về văn chương, Đinh tướng công là đại đình văn chương Trải Hình bộ Thượng thư hai triều của thời thịnh Lê, ngài có đức nghiệp lớn”.
Sau khi nghỉ việc quan, Đinh Bộ Cương về quê với chủ trương "Dĩ nông tàng nho". Vừa chiêu tập dân đinh, khai khẩn đất hoang, lập thành các làng xóm, cho xây dựng các công trình dẫn thủy nhập điền vừa mở trường, mở mang sự học cho con em trong vùng. Lại cho người về kinh, thuê người vẽ địa đồ, cho di dời dân chúng ra khỏi nơi nguy hiểm, dạy dân cách dựng nhà cho kiên cố,...Với cách làm sáng suốt, đúng đắn, ông đã tạo nên những xóm làng sầm uất, người dân vừa được học hành vừa có cuộc sống thanh bình, khá giả. Sau khi qua đời, ông được an táng tại quê nhà, được dân làng tôn kính và được triều đình sắc phong chính thức là Thành hoàng sống mãi trong lòng dân.
Hiện nay, vẫn còn lưu giữ những di tích gắn với Đinh Bộ Cương như khu mộ 7 ngôi, trong đó có ngôi mộ của ông, ở đất Tràng Học - là nơi ông mở trường dạy học. Theo Tàng thư họ Mai: Đền Bản Cảnh ở xã Thanh Liên (nay là xã Tam Đồng) do ông lập, cầu giang sơn phù hộ cho mọi người khi vào rừng khai khẩn; Lò Vôi ở dãy Lèn Môn Trang, còn gọi là lèn Yên Sơn (tức Yến Sơn - núi Én) gồm 3 hòn: Lèn Thượng - Lèn Hạ - Lèn Một, nơi chứa nhiều sự tích của vùng Hạnh Lâm cũng do ông xây dựng và ngược dòng sông Giăng tới Môn Sơn, Lục Dạ thuộc huyện Con Cuông cũ, đều là những địa danh gắn với tên tuổi và sự nghiệp của ông.
Người thứ 2: Thám hoa Nguyễn Ngọc Dật. Nguyễn Ngọc Dật - người thôn Đạo Ngạn, xã Cát Ngạn. Sinh thời nơi đây rất khó khăn, hàng ngày chủ yếu là ăn khoai sắn nhưng ông đã thi đậu Thám hoa khoa Bính Ngọ (1546). Thời đó, nước ta đang tồn tại Nam Bắc triều (1533 - 1593, bắt đầu khi Nguyễn Kim mượn danh nghĩa phò vua Lê và kết thúc khi nhà Mạc mất ngôi)… đất nước loạn lạc, Nhân dân thấy ông cứ ở nhà nói chữ mà không ra làm quan, nên tỏ ra thiếu tin tưởng nên ông đã bỏ làng ra đi không tin tức. Sau khi ông ra đi, Nhân dân hiểu rõ nỗi oan khiên đã lập đền thờ Dinh Quan Thám tại Rú Ngơ, cách làng ông ở khoảng 3km (theo Mai gia tàng thư). Vì vậy, ngoài học vị, thám hoa Nguyễn Ngọc Dật không để lại sự nghiệp gì.
Người thứ ba: Tiến sĩ Nguyễn Thế Bình. Ông sinh ra ở xã Cát Ngạn, huyện Thanh Chương cũ, nay là xã Cát Ngạn, tỉnh Nghệ An. Ông đậu Tiến sĩ năm 1768, được ghi tên vào bia Văn Miếu Quốc tử giám, được vua ban cấp lộc điền ở quê nhà để thu hoa lợi. Thương dân cực khổ, ông không giành phần ruộng màu mỡ cho mình mà chọn vùng đất Triều Sơn - là ngọn đồi chỉ toàn sỏi đá và vùng bãi nhỏ hẹp làm đất lộc điền. Theo một số tài liệu sử sách còn lưu lại: Thuở ấy, đất nước nhiễu nhương, Tuyên phi Đặng Thị Huệ được Chúa Trịnh sủng ái lăng loàn trong phủ Chúa. “Cậu trời” Đặng Mậu Lân - em trai Thị Huệ càng bất chấp đạo lý, ăn chơi trác táng, dâm ác, coi thường mọi người. Sự việc đến mức không thể chấp nhận. Ai cũng căm ghét Mậu Lân nhưng khi được cử xét xử người thì cáo bệnh, người thì vin cớ này, cớ khác để cáo lui. Sự thực thì họ sợ, xử nhẹ thì không hợp luật pháp, xử đúng thì sợ thế lực của Thị Huệ, Mậu Lân trả thù. Ông Nghè Cát Ngạn được chỉ định nghị án. Nguyễn Thế Bình nghiêm cẩn, thẳng thắn xử lý. Mậu Lân bị xử rất nặng. Quần thần hả hê nhưng không khỏi kinh hãi và khâm phục.
Người thứ tư: Tiến sỹ Đinh Nhật Thận. Đinh Nhật Thận - người làng Tiên Hội xã Thanh Liêu, nay là xã Tam Đồng, Nghệ An. Quốc triều đăng khoa lục (do Cao Xuân Dục chủ biên) chép về ông: “Ông đọc sách qua một lượt là nhớ. Làm văn, cất bút là xong, không cần phải nháp, ý tứ mới lạ, phần nhiều không theo khuôn sáo lối văn thời bấy giờ. Văn thơ ông làm xong là bỏ qua, không lưu lại bài nào”. Nay còn lưu giữ được “Thu dạ lữ hoài ngâm” được coi là một áng thơ hay.
Đỗ Tiến sĩ đồng khoa và là bạn thân với Cao Bá Quát - một trong những người cầm đầu một cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình. Trong dân gian từng lưu truyền nhận xét: thời đó cả nước có 3 “bồ chữ”. Hai anh em Cao Bá Quát, Cao Bá Đạt một “bồ”, Đinh Nhật Thận một “bồ”, còn một “bồ” rải rác trong thiên hạ. Ông còn là người sống khoáng đạt, phóng túng, giỏi ứng xử trong văn chương, thơ phú, làm thuốc giỏi, nổi tiếng với những toa thuốc “độc vị”. Sử sách còn lưu truyền nhiều câu chuyện về sự tài hoa, về những sự ghen tị, thị phi với cụ Nghè Đinh. Vì mến tài và e ngại ông, Vua Tự Đức lưu ông lại ở kinh đô để dạy con em trong hoàng tộc và cũng là để dễ bề kiềm tỏa. Ông mất năm Bính Dần (1866). Tên ông đã được đặt tên một tuyến đường ở khối Tân Hòa, Phường Trường Vinh, tỉnh Nghệ An…
Hành trình tôn tạo, bảo vệ văn chỉ bia
Không chỉ mang giá trị văn hóa và lịch sử, văn bia tổng Cát Ngạn còn được chăm chút về mặt mỹ thuật, do đó mang giá trị nghệ thuật cao. Quý hiếm như vậy nhưng do nhiều nguyên nhân, di chỉ này một thời đã bị lãng quên. Bằng chứng là xã Thanh Liên (trước đây) đã cắt đất nhà Văn Thánh, nơi lưu giữ những tấm văn bia này cho dân ở. Văn chỉ trải qua hàng chục năm “phơi sương nằm gió”. Trong nhiều năm, việc phục dựng, di dời luôn gặp khó khăn.
Những năm gần đây, khi đời sống của người dân được nâng lên cũng như Luật Di sản văn hóa được ban hành thì Nhân dân và chính quyền xã Thanh Liên và huyện Thanh Chương mới đi đến thống nhất việc phục dựng lại. Tuy vậy, việc phục dựng như thế nào và ở đâu lại là một bài toán khó. Bởi nay không thể phục dựng lại Văn chỉ trên nền đất cũ trong khuôn viên nhà thờ họ Võ. Sau nhiều trăn trở, cuối cùng, năm 2014, Văn chỉ đã được di dời về cạnh trung tâm UBND xã Thanh Liên mà chưa có nhà để bảo vệ.
Năm 2022, với sự hỗ trợ của một số con em và nguồn ngân sách xã, Đảng uỷ, chính quyền xã Thanh Liên đã cho xây dựng Nhà Văn thánh bằng gỗ lim 3 gian, lợp ngói âm dương, đánh dấu kết quả trùng tu, tôn tạo bảo vệ được di tích, thỏa tâm nguyện của người dân, làm nơi để các thế hệ học sinh và Nhân dân đến thăm, cầu mong đỗ đạt.
Từ khi xây dựng được, nhà Văn thánh bảo vệ bia khang trang, kiên cố, sạch đẹp, xã Thanh Liên (trước đây) và Tam Đồng hiện nay đã và đang tiếp tục hoàn thiện bằng việc xây bờ bao, lát gạch bloc và hệ thống cây cảnh. Tin chắc rằng đây sẽ là một địa chỉ để Nhân dân và con em trong vùng đến cầu lễ, mong đỗ đạt; là nơi để các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử và du khách đến tìm hiểu, nghiên cứu, chiêm bái.
Văn bia là một loại thư tịch, có niên đại rõ ràng, có giá trị như những tác phẩm văn học nghệ thuật, chứa đựng thông tin nhiều mặt về lịch sử, văn hóa - xã hội…Nó chính là sự gắn kết giữa quá khứ và hiện tại, tương lai. Với ý nghĩa như vậy, rất ghi nhận những cố gắng của cán bộ, Nhân dân xã Thanh Liên (trước đây) cũng như xã Tam Đồng hôm nay và cả vùng đất học Cát Ngạn đã không để văn chỉ bia Tổng Cát Ngạn trở thành phế tích./.
TĐH