Xe-lửa mấy hôm kiếm khá của, mỗi truyến toa nào toa ấy chật ních những người. Từ Đáp-Cầu sang Kiếp-bạc, tầu-thủy cứ mỗi ngày bốn năm truyến đi, bốn năm truyến về, vừa tầu-hiệu, đi siêu siêu vẹo vẹo; vừa tầu của ông Tây Điếc tiếp đãi khách tử-tế trang trọng, mỗi truyến tầu hơn bù kém sáu trăn người. Tầu đi ba giờ rưỡi đồng hồ hết Sông-cầu đến Lục-đầu-giang, qua Phả-lại một hồi thì ghé ngay cửa đền.
Gớm ghế sao mà đẹp thế! Sông lượn khúc, núi tay-ngai. Đền ở giữa, cửa tam-quan cao đẹp, thật khéo khuôn vào cảnh tự-nhiên. Đơn-sơ mà đẹp. Khen người vẽ kiểu cũng đã bắt chiếc một hai ý Thái-Tây (1). Xem ra thì tam-quan của quan Nguyễn-Cầu làm ra. Hai đầu núi có hai chùa thường hay gọi là chùa Nam-tào, chùa Bắc-đẩu. Trèo lên trông xuống thật là ngoạn-mục.
Trước cửa đền, giáp bờ sông có mấy cái quán rơm cất lên để tiếp khách vào đền.
Từ hôm mùng mười đến giờ là cứ rầm rập, mỗi ngày hàng ngót một vạn người kéo đến. Người thì cũng như tôi đến ngắm cảnh, và nhân một ngày kỷ-niệm mà thăm một điện để lưu danh một ông Thánh-tướng nước Nam; người thì đến lỡi (2) bái cầu phúc cầu con; người thì đến nhờ bóng Thánh trừ đuổi tà ma ám mình; người đói bụng nhân lúc dô hội người, đến kiếm đồng cơm đồng cháo, ngồi la liệt một rẫy từ bờ sông đến cửa đền; người thì nhân chỗ đông đến dật khăn lần túi những kẻ mê Thánh quên dở lưng; người đến xem người: nơi thần thánh là cho tình cờ lắm khi Giời thương Thánh độ đi cầu-con lại được cả chồng; cũng có người thì đến đây là tại thầy cứ năm năm (3) ngày ấy có người đến đấy thì mình cũng đến.
Ngoài sông thì một dãy thuyền châu mũi vào, vốn là các điện ở các nơi rước đến. Bờ sông thì người đi lại chật ních, ở giữa một anh lòa (4) dắt chó, khéo len để quẩn chân người vô tình, họa may có trông xuống. Các hàng cơm, hàng nước thì muôn vạn người nghỉ chân, cơm cá dán, nước chè-tươi. Các chú Khách thì nước-chanh, thuốc lá, hương vàng, khen thay khéo dỗ kẻ tin-mị. Nào Lương-vĩnh-hanh, nào Hứa-thiên-văn. Quảng-hợp-ích hương khói chầu thập bát chủng thiên ở đây chưa ai biết.
Ở sau chùa thì ước trừng vài trăm đám bốn năm người một, người trống, người mõ, người thanh-la, suốt ngày suốt đêm không dứt hồi. Đây là đương ốp, đó là gần thủ. Người đấm ngực, kẻ vật mình, thầy-đồng thì tay cờ tay kiếm, hò hét sai bảo các quan, tựa như làm trò chuyền-ý ở các phiên chợ nhà-quê bên Pháp, nhưng chỉ khác rằng những thầy chuyền-ý làm ra sự lạ biết tại làm sao, còn các thầy-đồng ta thì miệng chuyền thấy linh ứng nhưng cũng chẳng biết tại bởi đâu, có khi mình cũng tin rằng Thánh giáng.
Trong đền thì vàng hương đốt khói ngào ngạt, cửa cung thì mấy anh kỳ mục (5) làng, đứng vòi năm bẩy su, một vài hào mới cho các đệ tử vào lễ.
Lợn, gà, sôi, chuối bưng vào từng trăm ngàn mâm, vái chưa xong mấy ông kỳ-dịch đã dao-phay-bầu đứng trực, ra một bước là chuối đã mất nửa buồng, gà đã mất hai đùi, mâm sôi đã sạt già nửa.
Hai dãy nhà bên thực rõ ra một cửa hàng. Đàn anh đàn em đâu kéo cả làng Kiếp-bạc ra, người thì buôn bùa dấu, người thì bán tàn hương, anh thì cho thuê chỗ bắt tà.
Giường thì hai dẫy bàn đèn, tiền sôi gà bán cho các hàng thiếu chi, các quan viên tha hồ mà nạo sái.
Các chú-quyền thầy-cai quan sai đến, ý dáng để canh gác, thầy thì mở sóc đĩa, thầy thì dúp thánh làm khổ tà non.
Hội thì vui, cảnh thì đẹp, người thì đông, nhưng chỉ phải cái bẩn thỉu thì chỗ Kiếp-bạc không đâu bằng. Trong sân đền thực quá truồng lợn. Vàng hương đốt khói mù lên mà cũng không khỏi được những mùi ô uế, nào vỏ chuối, nào xương gà, rác đầy mặt đất.
Hai bên đường đi thì người đại-tiện, người tiểu-tiện, đến nỗi chỗ đồng không như chỗ ấy mà đứng đâu cũng ngạt mùi dơ bửn. Ở vệ sông thì nào lòng gà vỏ chuối, ruồi bâu nhặng quấy, hôi hám gớm ghiếc.
Người ở xứ ấy thì thực là xứng với tên làng Kiếp-bạc. Buôn thần bán thánh, đầu năm chí cuối, chỉ nhờ vào mấy hôm tết, ăn uống, hút sách cho nôn ọe ra, rồi xong hội chia nhau chẳng đều đến đi kiện đi thưa, đánh nhau chí mạng, đốt cửa đốt nhà, rồi người đa-tin lại đổ ra là tại ý thánh.
Rõ hoài của! cho cái làng ấy: đất đẹp, địa thế buôn bán được, mà chỉ vì cái lợi thánh cho ấy nên không có nghề có nghiệp gì, chỉ châu nhau vào làm lính lệ thánh.
Quả thế, cách cục chúng nó ở trong chùa, sử với nhưng người đi lễ bái, thực y như là cách lính lệ. Ai tiền không có thì đóng cửa chùa không cho lỡi.
Còn như sự đồng cốt (6) thì tôi định đi đến để mà tìm cách ngăn can người ngu dốt, nhưng cũng may, tôi trông thấy sự này thực mừng lắm.
Phàm các chị đi bắt tà (7), là phi vợ lính-tập, vợ bồi (8), thì là những người đê tiện, chớ người tử-tế không thấy một người nào. Còn những các ông Đồng bà Đồng thì là rặt những người có bịnh điên quồng hoặc là người dốt nát cả.
Ý giáng cũng vì thế cho nên ông Trần-hưng-Đạo cũng không dận lắm, chớ giá thử người có chữ nghĩa khôn ngoan, mà lại đổ cho ông ấy là cố tình hay chữa đàn-bà hiếm hoi, thì ông ấy dận vô-cùng nước Nam đơn bạc:
“ Công trạng với nước bao nhiêu, đến khi chết, nó lại bắt mình làm nghề lạ! Tài đánh giặc Nguyên ai lại đem ra dùng trừ hậu-sản!!!”
=========================
1. Thái Tây, một khái niệm xác định việc làm được ảnh hưởng từ phương Tây.
2. Lỡi bái hay Lễ bái đều có ý nghĩa như nhau. Đây là cách nói ở từng vùng địa phương, hoặc do quen miệng.
3. Theo chủ quan, chúng tôi nhận thức rằng, tác giả muốn nói lăm lăm… thể hiện sự sao chép trong cách nghĩ do bị ngoại cảnh tác động, không có nhận thức đầy đủ và lý giải cặn kẽ.
4. Lòa, mù lòa.
5. Kỳ hào, kỳ mục, kỳ dịch, những chức sắc ở địa phương cấp thấp, của hệ thống hành chính ở nông thôn thời phong kiến.
6. Đồng cốt, hoặc ngày nay chúng ta thường gọi là lên đồng hoặc hầu đồng.
7. Bắt tà, hay bắt ma, trừ tà.
8. Vợ bồi, những người phụ nữ lấy chồng, và người chồng là những người phục vụ cho Tây, cho người Pháp.
NGuồn =(Đăng Cổ Tùng Báo, số thứ Năm ngày 3 tháng 11 năm 1907)