Huế là nơi may mắn còn lưu giữ dấu tích của nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng như Cao Bá Quát, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, Tôn Thất Thuyết, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh… trong đó phải kể đến Nguyễn Du – nhà thơ thiên tài, danh nhân văn hóa thế giới.
Huế là nơi may mắn còn lưu giữ dấu tích của nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng như Cao Bá Quát, Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, Tôn Thất Thuyết, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh… trong đó phải kể đến Nguyễn Du – nhà thơ thiên tài, danh nhân văn hóa thế giới.
1) Nguyễn Du đến Huế lần đầu tiên:
Năm 1796, trên đường trốn vào Gia Định phò Nguyễn Ánh, bị quân Tây Sơn bắt tại Nghệ An, nếu không có Nguyễn Nễ (đang phò Tây Sơn) có lẽ Nguyễn Du đã bị xử trảm. Nguyễn Nễ là anh ruột cùng mẹ với Nguyễn Du, lớn hơn Nguyễn Du 4 tuổi (sinh 1761), cũng có tài ngoại giao và thơ phú không thua kém Nguyễn Du. Nhà thơ hết sức yêu quý Nguyễn Nễ. Năm 1791, khi Nguyễn Nễ vừa đi sứ Trung Quốc về, Nguyễn Du lặn lội ra Thăng Long thăm anh (ông có nhớ lại chuyến đi ấy trong Long Thành Cầm giả ca). Hai năm sau (1793), khi Nguyễn Nễ được điều vào Phú Xuân, Nguyễn Du lại khăn gói vượt Đèo Ngang vào chơi với anh trai mấy tháng. Tiếc là trong Thanh Hiên thi tập không thấy có bài thơ nào viết về chuyến đi này. Thời đó, Nguyễn Huệ vẫn đóng đô ở phủ chúa Nguyễn cũ, đặt ở Kim Long. Nguyễn Nễ là quan Đông Các Đại Học Sĩ nên chắc chắn được triều đình bố trí (hoặc thuê nhà) ở gần cạnh phủ. Như vậy, Kim Long có thể là nơi Nguyễn Du từng lưu lại trong lần đầu tiên nhà thơ đến Huế.
2) Ngôi nhà Nguyễn Du từng ở từ năm 1805 đến 1809:
Ngay năm đầu tiên lên ngôi, lấy niên hiệu Gia Long (1802), Nguyễn Ánh đã vời Nguyễn Du ra làm quan. Nhà thơ nhậm chức Tri huyện Phù Dung (Hưng Yên) rồi chuyển làm Tri phủ Thường Tín (Hà Tây). Chưa được hai năm, ông lấy cớ bị bệnh, từ chức, về quê (Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh). Đầu năm 1805, lại có chiếu chỉ nhà vua mời ông vào Phú Xuân và thăng chức Đông Các Điện Học Sĩ (cũng là năm Nguyễn Nễ mất). Trên đường vào kinh nhậm chức, nhà thơ vừa buồn vừa lo. Nguyễn Du đã bộc lộ tâm trạng ấy trong bài Sáng sớm đi trên đường núi Phượng Hoàng: Chinh phu hoài vãng lộ/ Dạ sắc thượng mông mông (Nghĩ đường trước mặt mà lo/ Trời mai còn vướng lờ mờ bóng đêm). Như phần lớn những người ở xa mới về kinh đô nhậm chức, Nguyễn Du được triều đình bố trí tạm trú ở ngôi nhà công. May mắn là trong Nam Trung tạp ngâm có ba bài thơ đề cập đến ngôi nhà công ấy. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du phần lớn được viết dưới dạng nhật ký. Nhà thơ ghi lại một cách chân thực những điều mắt thấy, tai nghe. Qua Ngẫu hứng công quán bích (Thơ ngẫu hứng đề trên vách nhà công) ta có thể hiểu được phần nào cuộc sống khá đạm bạc của những viên quan ở nhà công thời Gia Long: Triêu xan nhất vu phan/ Mộ dục nhất bồn thủy (Sớm ăn một bát cơm/ Chiều tắm một bồn nước). Quang cảnh xung quanh ngôi nhà công mà Nguyễn Du ở còn rất hoang dã:Khai song kiến kinh kỉ/ Song ngoại kinh kỉ mạn thả trường (Hé song thấy gai góc/ Gai góc ngoài song mọc ngổn ngang). Hai câu thơ này có nghĩa bóng khá thâm thúy. Từ ngôi nhà công ấy, nhà thơ có thể nhìn thấy: Xương hạp môn tiền xuân sắc lan/ Cách giang diêu đối Ngự Bình san (Xuân đã sắp tàn trước cửa rồng/ Xa xa núi Ngự ở bên sông). Theo sử sách ghi lại thì vào năm 1803, Hoàng Thành đã xây xong nhưng chưa hoành tráng như bây giờ. Gia Long chuyển cả gia đình từ phủ chúa Nguyễn cũ ở Kim Long về nơi ở mới. Đến năm 1805, bắt đầu xây Kinh Thành và 27 năm sau Kinh Thành Huế mới cơ bản hoàn thành (1832). Cho nên “cửa rồng” mà Nguyễn Du đề cập trong bài thơ trên chính là cửa Hoàng Thành chứ không phải là cửa ở phủ chúa Nguyễn cũ. Bài Ngẫu đề cho ta biết ngôi nhà công mà Nguyễn Du đang tạm trú nằm ở góc phía đông Hoàng Thành: Thập khẩu đề cơ Hồng Lĩnh bắc/ Nhất thân ngọa bệnh Đế Thành đông (Mười miệng kêu đói ngoài bắc Hoành Sơn/ Một thân nằm bệnh phía đông thành nhà vua). Ngôi nhà công ấy ở rất gần vùng quê nên đêm đêm nhà thơ nghe rõ: Đinh đông châm xứ thiên gia nguyệt (tiếng lục lạc, tiếng chày của nghìn nhà dưới trăng nghe rộn rã). Từ những chi tiết ấy, ta có thể phỏng đoán: ngôi nhà mà Nguyễn Du tạm trú trong những năm đầu làm quan ở Huế nằm trên trục đường Mai Thúc Loan, gần sát với cửa Đông Ba ngày nay. Đó là ngôi nhà tạm, mái tranh vách đất, bốn bề mọc nhiều cây gai. Lúc đó nhà thơ của chúng ta sống lặng lẽ, cô đơn, buồn chán. Hàng ngày phải chịu cảnh “vào luồn ra cúi”: Vô bệnh cố câu câu (Không bệnh mà lưng cứ phải khom – Thu chí). Bởi thế mà ngắm dòng sông Hương, Nguyễn Du phát hiện: Hương Giang nhất phiến nguyệt/ Kim cổ hứa đa sầu (Sông Hương một mảnh trăng/ Xưa nay gợi không biết bao nhiêu mối sầu – Thu chí). Ở Huế, còn có hai địa danh được Nguyễn Du nhắc đến trong Nam Trung tạp ngâm là chùa Thiên Thai và làng Hương Cần. Chùa Thiên Thai nằm dưới chân núi Thiên Thai: Cổ tự thu mai hoàng diệp lý/ Tiên triều tăng lão bạch vân trung (Chùa xưa lá thu vàng phủ kín/ Triều cũ tăng già bạc mây bông – Vọng Thiên Thai tự). Hương Cần là ngôi làng cách kinh đô khoảng 4 km về phía bắc. Đó là nơi nhà thơ tiễn người bạn được triều đình cho cáo quan về quê phụng dưỡng cha mẹ: Hương Cần quan đạo liễu thanh thanh/ Giang bắc, giang nam vô hạn tình (Hương Cần dương liễu rập rờn xanh/ Bến bắc, bến nam vô hạn tình… ). Bạn đi rồi, nhà thơ một mình trở về ngôi nhà công: Trù trướng thâm tiêu cô đối ảnh/ Mãn sàng đệ vũ bất kham thinh (Thổn thức giường khuya nương bóng lẻ/ Chẳng kham mưa gió sụt sùi canh – Tống nhân). Năm 1809, chuyển ra Quảng Bình giữ chức Cai bạ, nhà thơ vẫn mang theo tâm trạng cô đơn, buồn chán ấy.
3) Cây hồng ở phủ An Hiên và nơi an táng Nguyễn Du:
Năm 1813, có thể xem là bước ngoặt trong cuộc đời làm quan của Nguyễn Du. Ông được thăng Cần Chính Điện Học Sĩ và cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc (Nguyễn Du đã ghi lại khá đầy đủ chuyến đi này trong Bắc hành tạp lục). Cuối năm 1814, trở về Phú Xuân, nhà thơ được Gia Long đặc cách phong Hữu Tham Tri Bộ Lễ. Có lẽ do bận rộn với công việc mới và dồn toàn bộ tâm trí để soạn Đoạn trường tân thanh (về thời điểm Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều có nhiều giả thuyết khác nhau)) nên không hề thấy Nguyễn Du viết nhật ký bằng thơ. Mặc dù vậy, thông qua cây hồng tiến trong phủ An Hiên và nơi an táng, ta có thể phần nào biết được chỗ ở của Nguyễn Du giai đoạn từ năm 1815 cho đến khi mất (1820).
Cây hồng tiến có nguồn gốc từ Quảng Tây (Trung Quốc). Theo truyền thuyết, sở dĩ gọi là hồng tiến là bởi có một thời loại hồng này được chọn làm vật phẩm tiến vua. Hồng tiến có hương vị hết sức đặc biệt “ngọt và thanh đến độ tưởng như mỗi miếng vừa ngậm vào nửa chừng đã tan thành dư vang của một tiếng chim” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Ở miền Trung chỉ có hai nơi có loại hồng tiến này. Đó là làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh và khu vực Kim Long, Huế. Đây là loại cây khó trồng nên không phải nhà nào cũng có. Theo cụ Nghè Mai (chắt nội của Nguyễn Du) thì chính Nguyễn Du là người đã mang giống cây này trong chuyến đi sứ Trung Quốc về Tiên Điền. Hiện trong khu vườn An Hiên vẫn còn cây hồng tiến mà cụ Nghè Mai mang giống từ Tiên Điền vào tặng. Qua câu chuyện này, chúng ta có thể đoán được gia đình Nguyễn Du có mối quan hệ đặc biệt với chủ nhân phủ An Hiên. Phải chăng ông, cha của họ từng là bạn bè, láng giềng thân thiết của nhau? Và nếu như thế rất có khả năng ngôi nhà mà Nguyễn Du từng ở giai đoạn 1815 - 1820 chính là ngôi nhà trong phủ An Hiên hay nằm quanh khu vực phủ An Hiên (nay thuộc thôn Xuân Hòa, phường Hương Long, Huế).
Năm 1820, Gia Long mất, Minh Mạng lên ngôi, Nguyễn Du lại được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc, nhưng chưa kịp lên đường thì mất đột ngột (trong một trận dịch khủng khiếp làm chết hàng vạn người) ở kinh đô Huế, vào ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn (tức ngày 16 – 9 – 1820). Sách Đại Nam liệt truyện chép: Đến khi đau nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ông nói “được”; rồi mất, không trối lại điều gì. Nguyễn Du được an táng tại nghĩa địa xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế). Bốn năm sau (1824), con cháu mới cải táng về Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Nghĩa địa xã An Ninh cách phủ An Hiên khoảng 3 km. Đó là vùng đồi núi bao quanh cánh đồng Bầu Đá. Ở giữa cánh đồng nổi lên một cồn đất nhỏ. Mặc dù chôn cất vội vàng do sợ bệnh dịch lây lan nhưng chắc là các vị quan trong triều, bạn bè, người thân, bà con, láng giềng… không thể không chọn nơi đất tốt, theo luật phong thủy để an táng nhà thơ. Bởi vậy, nếu căn cứ vào luật phong thủy, chúng ta có thể xác định tương đối chính xác nơi an táng Nguyễn Du. Nghĩa địa xã An Ninh cách không xa phủ An Hiên, đó cũng là cơ sở để chúng ta phỏng đoán vị trí ngôi nhà mà Nguyễn Du từng sống trong những năm tháng cuối đời.
Kể từ khi Nguyễn Du mất đến nay đã hơn hai thế kỷ trôi qua với bao thăng trầm, dâu bể. Mọi dấu tích của nhà thơ đều bị thời gian xóa nhòa. Vì thế, việc đi tìm dấu tích nhà thơ chẳng khác gì đáy biển mò kim. Giá như Thừa Thiên Huế mạnh dạn đầu tư phục chế lại ngôi nhà công trên trục đường Mai Thúc Loan, gần cửa Đông Ba; ngôi nhà cạnh phủ An Hiên (Kim Long) và phần mộ Nguyễn Du ở nghĩa địa xã An Ninh (Hương Trà), chắc chắn Huế sẽ có thêm những điểm tham quan, du lịch rất có ý nghĩa.
2220
2336
21931
218430
121356
114511557