Cuộc sống quanh ta

Mô hình phòng, chống tham nhũng ở các quốc gia Châu Âu và một số vấn đề rút ra đối với Việt Nam

Tham nhũng là một thách thức mang tính toàn cầu. Nó là trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển (chính trị, kinh tế, xã hội) của mỗi quốc gia. “Nó đe dọa đối với sụ ổn định an ninh, xã hội; làm xói mòn các thể chế và các giá trị dân chủ, đạo đức, công lý, gây tổn hại đến sự phát triển bền vững và chế độ” (lời nói của Công ước Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng).

Chính vì vậy, việc phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ cấp bách của mỗi quốc gia trên thế giới. Mỗi một quốc gia, muốn đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng có hiệu quả, trước hết cần phải xây dựng tốt “mô hình phòng, chống tham nhũng” của mình. Trong những năm qua Đảng cộng sản và Chính phủ Việt Nam luôn đề cao công tác phòng, chống tham nhũng và đã ban hành rất nhiều Chỉ thị, Nghị quyết để lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Bên cạnh việc chủ động đề cao tự lực cánh sinh trong xây dựng mô hình phòng, chống tham nhũng, Đảng cộng sản và Chính phủ Việt Nam còn tích cực nghiên cứu, trao đổi và học tập những kinh nghiệm quý báu của các nước trên thế giới, trong đó có châu Âu. Châu Âu hiện nay vẫn và đã đi đầu trong việc xây dựng những mô hình phòng, chống tham nhũng một cách có hiệu quả và để lại những bài học kinh nghiệm quý báu cho các nước khác học tập noi theo. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ cố gắng tập trung phân tích những mô hình phòng, chống tham nhũng ở một số quốc gia Châu Âu và gợi mở một số kinh nghiệm cho Việt nam chúng ta.

1.                  Khái quát khung lý thuyết về “tham nhũng”

1.1.         Các khái niệm

Theo “Bách khoa toàn thư”: “tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để sách nhiễu, tham ô, nhận hối lộ, hoặc cố ý làm trái chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế - tài chính vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản của các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị, xã hội”.

Còn theo Ngân hàng Thế giới (WB) “Tham nhũng là sự lạm dụng cơ quan nhà nước để thu lợi riêng”

Còn theo Tổ chức minh bạch thế giới (TI) “Tham nhũng là sự lạm dụng quyền lực được tin cậy giao phó cho lợi ích cá nhân”.

Theo Hội đồng Châu Âu và Tổ chức Hợp tác Kinh tế phát triển, “Tham nhũng là hành vi của những người tin cậy giao phó nhiệm vụ công hoặc tư nhưng không tôn trọng trách nhiệm và nghĩa vụ của mình nhằm đạt được các lợi ích chính đáng”.

Theo Luật pháp ở nhiều nước Châu Âu, “Tham nhũng là hành vi lạm quyền lực, không tôn trọng các chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực hành vi, trách nhiệm công chức và pháp luật mà tư lợi cho cá nhân”[1].

Còn theo Luật phòng chống tham nhũng ở Việt Nam: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn, đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức”[2]. Theo qui định tại khoản 2, điều 1 Luật phòng chống tham nhũng năm 2005, khái niệm “tham nhũng” được hiểu “Là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ , quyền hạn đó vì vụ lợi”[3].

Tham nhũng và phòng chống tham nhũng được qui định trong các văn bản pháp luật của Việt Nam hiện nay được hiểu là “tham nhũng trong khu vực công”. Hành vi tham nhũng luôn gắn với việc người có chức vụ, quyền hạn (trong cơ quan, tổ chức), lợi dụng hoặc lạm dụng chúc vụ quyền hạn làm trái công vụ mưu cầu lợi ích riêng. Theo qui định tại Khoản 3, điều 1, Luật phòng, chống tham nhũng: Người có chức vụ quyền hạn bao gồm: a) Cán bộ, công chức, viên chức; b) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân; Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn – kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân; c) Cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh ngiệp nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của nhà nước tại doanh nghiệp; d) người được  giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó.” Theo qui định tại Khản 6, điều 2, Luật phòng, chống tham nhũng: “Cơ quan, tổ chức, đơn vị bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và cơ quan, tổ chức, đơn vị khác có sử dụng ngân sách, tài sản của nhà nước”. Như vậy hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế tư nhân… (khu vực tư), lợi dụng chức vụ, quyền hạn mưu cầu lợi ích cá nhân không bị coi là tham nhũng. Đây là điểm khác biệt trong qui định pháp luật của Việt Nam với Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng tại Điều 21 qui định hành vi “hối lộ trong khu vực tư”,Điều 22 qui định hành vi “biển thủ tài sản trong khu vực tư nhân”[4].

1.2.         Đặc điểm của hành vi tham nhũng

Hành vi tham nhũng có những đặc điểm sau:

Thứ nhất: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn.

Thứ hai: Khi thực hiện hành vi tham nhũng, người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình làm trái pháp luật để mưu cầu lợi ích riêng.

Thứ ba: Động cơ của người có hành vi tham nhũng là vì vụ lợi.

Người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn, sử dụng trái pháp luật quyền hành mà nhà nước trao để mưu cầu lợi ích riêng. Hành vi của họ không xuất phát từ nhu cầu công việc hay trách nhiệm của cán bộ, công chức mà vì lợi ích riêng (cá nhân hay đơn vị mình). Nếu thiếu yếu tố “vụ lợi” thì hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn, làm trái công vụ của cán bộ, công chức cũng không bị coi là “tham nhũng” nói chung, hay tội phạm về tham nhũng nói riêng.

1.3.         Các hành vi tham nhũng và tội phạm về tham nhũng

Điều 3, Luật phòng chống tham nhũng, năm 2003 đã qui định 12 hành vi tham nhũng bao gồm: 1) Tham ô tài sản; 2) Nhận hối lộ; 3) Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; 4) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; 5) Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; 6) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng tới người khác để trục lợi; 7) Giả mạo trong công tác vì vụ lợi. 8) Đưa hối lộ, môi giới hối lộ, được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; 9) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản nhà nước vì vụ lợi; 10) Nhũng nhiễu vì vụ lợi; 11) Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; 12) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi phạm pháp luật vì vụ lợi;  cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi”[5].

Đối với tội phạm về tham nhũng, bao gồm 12 tội danh sau: 1) Tham ô tài sản, 2) Tội nhận hối lộ, 3) Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, 4) Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, 5) Tội lạm dụng quyền trong khi thi hành công vụ, 6) Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi, 7) Tội giả mạo trong công tác vì vụ lợi, 8) Tội đưa hối lộ, môi giới hối lộ, 9) Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của nhà nước vì vụ lợi, 10) Tội nhũng nhiễu vì vụ lợi, 11) tội không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi, 12) Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi, cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi”[6].

2.                  Mô hình phòng, chống tham nhũng ở một số quốc gia Châu Âu

Trong những thập kỷ gần đây, cùng với xu thế toàn cầu hóa, tham nhũng ngày càng lan rộng và trở thành một vấn đề hết sức nhức nhối, đe dọa nghiêm trọng đến tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới. Báo cáo của Viện Quản lý tài nguyên môi trường (NRGI), một tổ chức phi chính phủ có trụ sở tại New York, Mỹ, đưa ra ngày 11/10 đã khiến thế giới bất ngờ: Khoảng 1.500 tỷ USD, tương đương 2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, là số tiền thất thoát mỗi năm do tham nhũng. Chưa hết, con số này mới chỉ phản ánh khoản thiệt hại tài chính do các hành vi tham nhũng gây ra và chưa tính tới những thiệt hại về cơ hội, về năng suất lao động và sự đổi mới. Những nước phát triển và có cơ chế chống tham nhũng mạnh như châu Âu cũng không thoát được tham nhũng. Ủy ban Kinh tế và Xã hội châu Âu (EESC) cho biết, nạn tham nhũng và biển thủ gây thiệt hại tới 120 tỷ euro mỗi năm, tương đương 1% tổng sản phẩm nội khối (GDP) của Liên minh châu Âu (EU)[7]

Đứng trước vấn nạn tham nhũng toàn cầu, cả thế giới đều chung tay hợp sức chống lại tham nhũng. Từ năm 1995, Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) đã ra đời đóng trụ sở tại Cộng hòa LB Đức, có nhiệm vụ công bố xếp hạng thường niên về tham nhũng trên thế giới. năm 2003, Công ước của Liên hợp quốc về phòng, chống tham nhũng đã được thông qua. Ngày 10/12/2003, Việt Nam đã ký công ước kèm theo văn kiện phê chuẩn vào ngày 19/8/2009. Trước khi Công ước Liên hợp quốc về phòng, chống tham nhũng được thông qua, các quốc gia ở Châu Âu và trên thế giới đã cùng nhau thảo luận, thông qua Công ước phòng, chống tham nhũng hoặc các tội phạm liên quan đến tham nhũng như: Công ước liên Châu Mỹ về chống tham nhũng do Tổ chức các quốc gia Châu Mỹ thông qua ngày 29/3/1996, Công ước của Liên minh Châu Phi về phòng, chống tham nhũng được ký kết ngày 12/7/2003.

Riêng ở Châu Âu, vấn đề phòng, chống tham nhũng đã được Ủy ban Châu Âu tiến hành nghiên cứu và ký kết nhiều công ước rất quan trọng. Đó là, Công ước chống tham nhũng liên quan đến công chức của Châu Âu và công chức của các quốc gia thành viên trong Liên minh Châu Âu do Hội đồng Liên minh Châu Âu thông qua ngày 26/5/1997. Công ước chống hối lộ công chức nước ngoài trong giao dịch kinh doanh do Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế thông qua ngày 21/11/1997. Công ước luật hình sự về tham nhũng do Ủy ban Bộ trưởng của Hội đồng châu Âu thông qua ngày 27/01/1999; Công ước luật dân sự về tham nhũng do Ủy ban Bộ trưởng của Hội đồng Châu Âu thông qua ngày 04/11/1999. Các nước trong châu Âu luôn đi đầu trong đề ra các sáng kiến phòng chống tham nhũng. Gần đây nhất, ngày 12/5/2016, lãnh đạo hơn 40 nước và tổ chức quốc tế ở châu Âu và trên thế giới đã đến London, thủ đo nước Anh để họp và mở một trung tâm phòng, chống tham nhũng quốc tế, đặt trụ sở tại London (Anh) với sự góp mặt của nhiều nước ở châu Âu và trên thế giới như Mỹ, Australia, New Zeland, tổ chức cảnh sát hình sự châu Âu (Interpol). Mục đích của thành lập tổ chức này là “khởi động một phong trào toàn cầu thực sự để đánh bại tham nhũng”, Thủ tướng Anh khi đó là ông Cameron đã nhấn mạnh: “Tham nhũng là kẻ thù của tiến bộ và là gốc rễ của nhiều vấn nạn của thế giới. Tham nhũng đã hủy hoại công ăn việc làm, kéo lùi tăng trưởng kinh tế, kìm kẹp những người nghèo nhất trong sự khốn khó cùng cực và làm suy yếu an ninh quốc gia bởi nó đẩy con người ta tới các nhóm cực đoan”[8].

Hàng năm, Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) đã công bố bảng xếp hạng thường niên về tình trạng tham nhũng trên thế giới. Mấy năm qua, châu Âu luôn được xếp vào 10 nước có tham nhũng ít nhất thế giới, đó là các nước như: Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Điển, Na Uy, Thụy Sĩ, Đức, ... Nhưng mặt khác châu Âu cũng còn nhiều quốc gia bị xếp vào vị trí tham nhũng nhiều trên thế giới. Transparency International cũng cho rằng: Ukraine, Armenia, Bosnia, Litva, Moldova, Nga và Serbia là những nước tham nhũng nhất ở Châu Âu và Trung Á[9].

Trong lịch sử xây dựng pháp luật của các nước trên thế giới, bộ luật hình sự đầu tiên có quy định về tội tham nhũng ra đời ở Italia vào năm 1853 và 1859. Để ngăn ngừa tham nhũng trong quản lý kinh tế, nước Đức đã có luật về chế độ tài chính, luật kiểm toán, luật kinh doanh trung thực, luật cạnh tranh lành mạnh. Còn ở Hy Lạp, có luật về bảo vệ thanh danh của các nhà chính trị, ... Nhìn chung, các bộ luật của các nước châu Âu đều có quan điểm thống nhất về dấu hiệu đặc trưng của tội tham nhũng là hành vi của những người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm mục đích vụ lợi. Để chống tham nhũng có hiệu quả, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mình, mỗi một quốc gia đều đã lựa chọn cho mình những cơ chế tổ chức chống tham nhũng riêng. Hiện nay trên thế giới và ở châu Âu thường có 4 nhóm mô hình cơ bản phòng chống tham nhũng như sau:

- Mô hình thứ nhất: Thành lập Cơ quan chống tham nhũng chuyên trách cấp Bộ trực thuộc Quốc hội hoặc Chính phủ từ Trung ương đến địa phương với quyền hạn rộng lớn, đồng thời xây dựng hệ thống pháp luật phòng và chống tham nhũng đồng bộ, chặt chẽ.

- Mô hình thứ hai: Xây dựng các đơn vị, tổ chức đặc biệt có chức năng chống tham nhũng thuộc cơ quan Công an, Cảnh sát, các cơ quan bảo vệ pháp luật, với các quy định pháp luật khá đầy đủ và chặt chẽ. Trên thế giới có khoảng 150 nước thành lập cơ quan chống tham nhũng theo mô hình này. Việc thành lập Cơ quan chuyên trách chống tham nhũng trong Cảnh sát quốc gia sẽ giúp cho sự phối hợp thuận lợi với các cơ quan cảnh sát địa phương, cơ quan trinh sát và điều tra tố tụng, cơ quan tình báo hình sự, cơ quan giám định hình sự, công tác trinh sát trại giam, v.v...

- Mô hình thứ ba: Sử dụng các cơ quan Thanh tra, Giám sát, trao thêm các quyền hạn đặc biệt để chống tham nhũng (như Ban Thanh tra và Kiểm toán Hàn Quốc, Bộ Giám sát hành chính Trung Quốc). Thực chất với mô hình này, các cơ quan chống tham nhũng chỉ có thể tiến hành các hoạt động thanh tra, kiểm tra hành chính công khai chứ không thể tiến hành các hoạt động tình báo hình sự, trinh sát và điều tra tố tụng các tội phạm tham nhũng được.

- Mô hình thứ tư: Không thành lập cơ quan chuyên trách hoặc cơ quan có thẩm quyền riêng mà coi chống tham nhũng là một trong những nhiệm vụ đấu tranh chống các loại tội phạm khác và trách nhiệm thuộc các cơ quan bảo vệ pháp luật, không xây dựng hệ thống pháp luật riêng để điều chỉnh vấn đề này, như CHLB Đức, Pháp và một số nước phát triển khác. Sở dĩ các nước này không thành lập Cơ quan chống tham nhũng riêng vì ở các nước này tham nhũng không bức xúc tới mức phải thành lập các cơ quan chống tham nhũng chuyên trách. Cơ quan chống tội phạm kinh tế hoặc cơ quan điều tra hình sự có đủ thẩm quyền và lực lượng đấu tranh chống tham nhũng.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây do tính chất phức tạp của tội phạm tham nhũng với những biểu hiện mới, có sự cấu kết với các băng nhóm tội phạm mafia và có sự can thiệp của các đảng phái, tổ chức chính trị nên các cơ quan có chức năng đấu tranh với tội phạm gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát hiện và xử lý các tội phạm tham nhũng. Vì vậy nhiều quốc gia theo mô hình này đã và đang xúc tiến nghiên cứu để chuyển đổi sang mô hình thành lập các cơ quan, tổ chức chuyên trách chống tham nhũng độc lập, đồng thời xây dựng ban hành nhiều đạo luật để trừng trị tội phạm tham nhũng và các tội phạm khác liên quan đến chức vụ, quyền hạn[10].

Tóm lại, dù tổ chức theo mô hình nào thì cơ quan chuyên trách chống tham nhũng của các nước cũng cần phải có đầy đủ các thẩm quyền hành chính. Dù tổ chức theo mô hình nào thì cơ quan chuyên trách chống tham nhũng của các nước cũng cần phải có đầy đủ các thẩm quyền hành chính, trinh sát và tố tụng hình sự. Cơ quan này có thẩm quyền điều tra các tội phạm về tham nhũng được quy định trong Bộ luật Hình sự và các văn bản pháp luật hình sự khác. Điều tra các hành vi vi phạm pháp luật của công chức Nhà nước, các hành vi vi phạm đạo đức, kỷ luật nghề nghiệp của công chức. Bắt, khám xét, tạm giam, tạm giữ người, tiền vàng, đồ vật... có liên quan đến tham nhũng. Ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc truy tố đối với người có hành vi tham nhũng.

Cơ quan chuyên trách chống tham nhũng có quyền tiếp nhận các nguồn thông tin về tham nhũng từ đơn thư tố cáo của công dân (kể cả đơn thư nặc danh), từ báo chí hoặc các phương tiện thông tin đại chúng, từ các hoạt động giám sát, kiểm tra thường xuyên, từ tin tức, phát hiện của những trinh sát nghiệp vụ hoặc từ các nguồn khác. Để phát huy tinh thần đấu tranh của nhân dân, cơ quan chống tham nhũng nói riêng và chính phủ các nước nhận thức sâu sắc rằng chỉ khi nào phát động được sự ủng hộ to lớn và nhiệt tình của nhân dân thì cuộc đấu tranh chống tham nhũng mới có hiệu quả. Vì vậy các thông tin, tố cáo của quần chúng về tham nhũng được các cơ quan này tiếp nhận với thời gian 24/24 giờ trong ngày.

          Ở châu Âu có những quốc gia đã thống nhất tập trung toàn bộ các vấn đề chống tham nhũng (cả việc điều tra, truy tố và phòng ngừa) vào một cơ quan duy nhất là Ủy ban Chống tham nhũng (ACA). Cơ quan này trực thuộc Thủ tướng Chính phủ, hàm bộ trưởng, nhưng thủ tướng chính phủ và các bộ trưởng không có chức năng điều hành công việc hàng ngày của cơ quan này. ACA có nhiệm vụ: tiến hành các chiến dịch chống tham nhũng; thu thập và xét xử các thông tin; điều tra các vụ tham nhũng và các hoạt động vi phạm pháp luật trong cơ quan nhà nước. Truy tố ngăn ngừa phạm tội tham nhũng. Chuẩn bị các báo cáo về xử lý kỷ luật và báo cáo điều tra; tiến hành nghiên cứu nhằm tìm ra những yếu kém và khe hở trong hệ thống và thủ tục hành chính hiện hành. Thực hiện chế độ khen thưởng, kỷ luật. Đề ra và thực hiện các biện pháp phòng ngừa khác như tiến hành kiểm tra hoặc thanh tra đột xuất, phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật để tiến hành điều tra đột xuất. Để thực hiện các nhiệm vụ của mình, Ủy ban Chống tham nhũng tiến hành các biện pháp: Biện pháp trừng trị, xử lý kỷ luật hoặc truy tố ra Tòa (xử lý hình sự); Biện pháp hành chính kỷ luật, tiến hành nghiên cứu, khảo sát về mặt tổ chức; Biện pháp giáo dục nâng cao phẩm chất đạo đức nhằm  nâng cao ý thức chống tham nhũng trong nhân dân và sự ủng hộ, hợp tác của đông đảo quần chúng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng[11].

          Từ nghiên cứu khái quát 4 mô hình cơ bản phòng, chống tham nhũng trên thế giới và ở châu Âu, chúng tôi đưa ra kinh nghiệm phòng chống tham nhũng ở 4 nước (Hà Lan, Cộng hòa Liên bang Đức, Liên bang Nga, Estonia), coi đó là nghiên cứu trường hợp ở châu Âu.

2.1.         Kinh nghiệm chống tham nhũng ở Hà Lan

Là một trong những quốc gia có mức độ tham nhũng thấp nhất thế giới, bởi quốc gia này xây dựng và thực hiện hệ thống các biện pháp cảnh báo và chống tham nhũng khá hoàn chỉnh.

Hà Lan tổ chức nghiên cứu xây dựng hệ thống quản lý những lĩnh vực có thể phát sinh hành vi tham nhũng và kiểm soát chặt chẽ hoạt động của những công chức làm việc trong các lĩnh vực đó. Từ đó, xây dựng hệ thống quyền hạn và trách nhiệm của các công chức nhà nước, trong đó ghi rõ trách nhiệm đối với công chức vi phạm đạo đức công vụ; xây dựng hệ thống an ninh quốc gia chuyên trách có quyền hạn rất lớn trong việc phát hiện các hành vi tham nhũng và chống tham nhũng. Tổ chức hệ thống khắt khe và khách quan để tuyển chọn công chức vào những chức vụ có điều kiện dẫn đến hành vi tham nhũng.

Xây dựng hệ thống chuyên trách để giáo dục và tập huấn công chức nhằm làm họ thấy rõ tác hại của các hành vi tham nhũng đối với lợi ích quốc gia.

Trong những tổ chức quan trọng của Nhà nước như các cơ quan cấp bộ, cơ quan an ninh nội bộ có nhiệm vụ phát hiện sai phạm của công chức nhà nước, các hành động vi phạm có chủ ý hoặc ngẫu nhiên đối với các quy định, cũng như hậu quả của những hành động đó. Thực hiện chế độ thường xuyên báo cáo và công khai hóa về các vụ việc trong quá trình phát hiện tham nhũng và trừng phạt các hành vi tham nhũng. Hằng năm, Bộ Nội vụ Hà Lan báo cáo trước Quốc hội về các vụ việc tham nhũng đã bị phát hiện và các biện pháp áp dụng để trừng phạt những kẻ có hành vi tham nhũng.

Các công chức nhà nước ở tất cả các cấp nhất thiết phải báo cáo các trường hợp tham nhũng mà họ biết được. Thông tin này sẽ được chuyển tới Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp theo các kênh liên lạc thích hợp. Các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình v.v. . đóng vai trò rất lớn trong cuộc chiến chống tham nhũng, như phát hiện, phanh phui, điều tra và công bố hành vi tham nhũng.

Biện pháp cơ bản để trừng phạt hành vi tham nhũng là tước mọi quyền hưởng các lợi ích xã hội và cấm công chức từng có hành vi tham nhũng làm việc trong cơ quan nhà nước. Tất cả các hồ sơ và tài liệu liên quan đến hành vi tham nhũng, nếu không liên quan đến hệ thống an ninh quốc gia, nhất thiết phải được công khai trước công luận.

2.2.         Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng ở CHLB Đức

Ở CHLB Đức, không phụ thuộc vào chức năng nghiệp vụ cụ thể, tất cả công chức nhà nước đều có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ được giao một cách tận tụy, chu đáo, cẩn trọng, để phục vụ lợi ích quốc gia và của toàn xã hội, trong đó yêu cầu rất cao về chống tham nhũng.

Để phòng ngừa và hạn chế hành vi tham nhũng, Chính phủ CHLB Đức quy định rất rõ ràng, công chức nhà nước hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi hành động và hành vi của họ khi thực hiện các chức trách công vụ. Theo quy định của nhà nước CHLB Đức, một trong những vấn đề quan trọng nhất trong chống tham nhũng là giữ gìn bí mật công vụ. Ở CHLB Đức, công chức khi hết thời hạn công tác trong cơ quan nhà nước có nhiệm vụ giữ gìn những thông tin và số liệu mà họ được biết trong quá trình công tác. Nếu không được phép, công chức nhà nước không có quyền công khai hoặc thông tin về công việc mà họ đã làm, ngay cả sau khi đã nghỉ hưu.

Công chức nhà nước ở CHLB Đức nếu muốn làm một công việc nào khác, ngoài chức trách công vụ do Nhà nước giao, nhất thiết phải được phép của cấp quản lý công vụ cao hơn. Tuy nhiên, nếu công việc ngoại lệ liên quan đến giảng dạy và nghiên cứu trong các viện và cơ quan khoa học thì không cần xin giấy phép.

Công chức nhà nước không được phép hoạt động kinh doanh tư nhân hoặc hoạt động kinh doanh thông qua những người được ủy quyền, cũng như người thân trong gia đình. Những quy định này được Chính phủ ban hành kèm theo các nghị định có giá trị pháp lý, trong đó quy định rõ: hoạt động nào được coi là công vụ hoặc tương đương với công vụ; công chức nhà nước nào có quyền nhận thù lao hoặc tiền thưởng do các hoạt động ngoài công vụ; quy định giá trị tiền thưởng hằng năm đối với các loại hình công chức khác nhau và chế độ thanh quyết toán.

Nếu sau khi nghỉ hưu, công chức nhà nước tiếp tục làm việc trong lĩnh vực có liên quan đến hoạt động công vụ của họ trong vòng 5 năm trước khi nghỉ việc, họ phải báo cáo rõ ràng và minh bạch về công việc đó với cơ quan, trước khi rời nhiệm sở. Cơ quan quản lý cấp trên cấm các công chức sau khi nghỉ hưu làm việc trong các lĩnh vực có nguy cơ gây thiệt hại đối với lợi ích công vụ mà họ từng đảm nhiệm trước đó.

2.3.         Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng ở Nga

Sau khi lên cầm quyền vào năm 2000, một trong những nhiệm vụ cấp bách của Tổng thống Nga V.Pu-tin là tuyên chiến với quốc nạn tham nhũng, ông thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm xây dựng thể chế chính trị và kinh tế mới, lấy đó làm cơ sở để xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội, tiến hành kiểm soát gắt gao đối với quá trình tư nhân hóa và trừng phạt các hành vi tham nhũng. Vì thế, hàng loạt quan chức nhà nước Nga từng trở thành “tỷ phú sau một đêm" đã phải bỏ chạy ra nước ngoài, không ít người bị đưa ra tòa xét xử và lĩnh án tù, trong đó có tỷ phú M.Khô-đô-cốp-xki (M.Khodor- Covski). Chính nhà tỷ phú này đã có kế hoạch sử dụng rất nhiều tiền để mua chuộc các nghị sỹ trong Quốc hội Nga thông qua Luật Tài nguyên, theo đó Nga sẽ tư nhân hóa lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên, tạo điều kiện cho các công ty nước ngoài "mua đứt bán đoạn nước Nga". Tổng thống Nga V.Pu-tin đã sớm nhận ra nguy cơ này và ngăn chặn ngay lập tức và chính ông từng tuyên bố rằng quốc nạn tham nhũng ở Nga có yếu tố nước ngoài.

Tuy nhiên, phải đến năm 2010, sau khi tái nhậm chức ở nhiệm kỳ 3, Tổng thống Nga V.Pu-tin mới có điều kiện chỉ đạo Chính phủ Liên bang Nga hoàn thành văn kiện hoàn chỉnh Chiến lược quốc gia chống tham nhũng và được ông phê chuẩn theo Sắc lệnh số 460, ngày 13/4/2010. Chiến lược quốc gia chống tham nhũng là văn kiện mang tính cương lĩnh chung với nội dung nhằm loại bỏ các nguyên nhân cơ bản dẫn tới tham nhũng trong xã hội. Sau đó, chiến lược này được cụ thể hóa trong Đạo luật liên bang chống tham nhũng và nhiều văn bản pháp quy khác có liên quan đến chống tham nhũng. Ngày 13/3/2012, Chính phủ Nga thông qua Kế hoạch quốc gia chống tham nhũng trong 2 năm 2012 - 2013.

Trên cơ sở đó, các cơ quan nhà nước liên bang và các chủ thể liên bang xây dựng kế hoạch riêng về chống tham nhũng phù hợp với từng đối tượng.

Theo Tổng thống Nga V.Pu-tin, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong cuộc chiến chống tham nhũng là làm thay đổi căn bản nhận thức của toàn xã hội, hình thành trong xã hội môi trường tích cực chống tham nhũng. Để giải quyết nhiệm vụ này, Chính phủ Nga có kế hoạch nâng cao hiểu biết của người dân về pháp luật; tạo ra tính minh bạch cao nhất cho các hoạt động công vụ; tiến hành kiểm tra và kiểm soát hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước.

2.4.         Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng ở Estonia

Ở Estonia, nạn tham nhũng trở thành một trong những loại hình tội phạm có tổ chức liên quan tới quá trình tư nhân hóa ồ ạt trong nền kinh tế.  Thậm chí, nạn tham nhũng len lỏi vào trong các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Ngày 13/5/2003, Chính phủ Estonia thành lập ủy ban chống tham nhũng với các thành viên bao gồm Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Kinh tế và truyền thông và Chánh Văn phòng nhà nước.

Nhiệm vụ của ủy ban này là soạn thảo chiến lược chống tham nhũng và các biện pháp để thực hiện chiến lược đó.

Để soạn thảo chiến lược này, ủy ban chống tham nhũng tổ chức các cuộc họp liên ngành với lãnh đạo một số cơ quan liên quan, các quan chức và các chuyên gia một số cơ quan cấp bộ và ngành, ủy ban thống nhất nội dung chiến lược chống tham nhũng và trình Chính phủ phê chuẩn để thực hiện. Theo đó, hàng năm ủy ban và Bộ Tư pháp phải báo cáo trước Chính phủ về hoạt động của mình cũng như kết quả chống tham nhũng.

Mục đích của chiến lược chống tham nhũng hằng năm là cảnh báo, ngăn ngừa, hạn chế và triệt tiêu mọi khả năng và điều kiện có thể dẫn tới tham nhũng, kết hợp với các biện pháp trừng phạt những ai vi phạm.

Theo các chuyên gia chống tham nhũng của Estonia, mức độ tham nhũng phụ thuộc rất đáng kể vào quan niệm về giá trị trong xã hội, đặc biệt là trong hàng ngũ các công chức, cũng như tính chất tổ chức của các cơ quan nhà nước như khả năng giám sát và tính công khai, minh bạch. Do đó, trong chiến lược chống tham nhũng, Chính phủ Estonia rất chú trọng khuyến khích và mở rộng hoạt động tuyên truyền và giáo dục đạo đức, bảo đảm tạo ra sự giám sát tốt nhất để ngăn ngừa tham nhũng.

Đặc biệt, Chính phủ Estonia đã đưa nội dung chống tham nhũng vào trong Chiến lược an ninh quốc gia được phê chuẩn vào năm 2004. Trong điều khoản “Bảo vệ thể chế luật pháp và các lĩnh vực có tầm quan trọng sống còn và bảo đảm an ninh quốc gia", Chính phủ nước này coi tham nhũng là một trong những nguy cơ nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia. Từ đó, coi các biện pháp chống tham nhũng có tầm quan trọng như bảo đảm an ninh quốc gia.

3. Một số vấn đề rút ra đối với Việt Nam

Luật Phòng, chống tham nhũng ban hành năm 2005, được sửa đổi qua các năm 2007 và 2012 quy định việc thành lập cơ quan có trách nhiệm chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam là Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Về tổ chức, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng gồm: Trưởng Ban Chỉ đạo là Thủ tướng Chính phủ; Phó trưởng Ban chỉ đạo là Phó Thủ tướng Chính phủ; các ủy viên Ban chỉ đạo: Ủy viên thường trực; Tổng Thanh tra Chính phủ; Bộ trưởng Bộ Công an; Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương; Phó Trưởng Ban Nội chính Trung ương; Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ở địa phương cũng có Ban Chỉ đạo và Văn phòng Ban Chỉ đạo cấp tỉnh. Trong các cơ quan thanh tra, công an và viện kiểm sát thành lập các đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng.

Hội nghị Trung ương 5 khóa XI (tháng 5-2012) kết luận thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng trực thuộc Bộ Chính trị, do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban. Ban Nội chính Trung ương được thành lập lại làm nhiệm vụ Thường trực cho Ban Chỉ đạo mới. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong việc chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống tham nhũng trong phạm vi cả nước. Ban có 16 thành viên, gồm  nhiều cán bộ đứng đầu cơ quan đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. So với Ban Chỉ đạo trước, Ban Chỉ đạo mới có số lượng thành viên nhiều hơn, trong đó có nhiều người là cấp trưởng cơ quan Đảng, Nhà nước.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, chức năng phòng, chống tham nhũng còn được trao cho các cơ quan có chức năng bảo vệ pháp luật, bao gồm các cơ quan thanh tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát, tòa án. Luật Thanh tra năm 2010 và các văn bản sau đó về tổ chức thanh tra đã lần đầu tiên xác định Thanh tra Chính phủ là cơ quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm: tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn công tác thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng; trường hợp phát hiện hành vi tham nhũng thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý; xây dựng hệ thống dữ liệu chung về phòng, chống tham nhũng. Điều 77, 78, 79 Luật Phòng, chống tham nhũng cũng quy định trách nhiệm của Kiểm toán nhà nước, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao trong việc tham gia đấu tranh phòng ngừa và xử lý tham nhũng.

Thực tiễn hoạt động cho thấy, quy định về các cơ quan phòng, chống tham nhũng như hiện nay hiệu quả chưa cao.

Muốn phòng, chống tham nhũng có hiệu quả phải xây dựng cơ quan phòng, chống tham nhũng độc lập, có cơ cấu tổ chức riêng, không chịu sự ảnh hưởng, tác động của các cơ quan khác. Mục đích thành lập cơ quan, lực lượng chuyên trách là nhằm tăng cường tính chuyên nghiệp và đảm bảo sự độc lập tương đối trong hoạt động chống tham nhũng. Đây cũng là yêu cầu cơ bản của Công ước phòng, chống tham nhũng của Liên Hợp quốc. Điều 6 và Điều 36 của Công ước quy định trách nhiệm của các quốc gia thành viên trong việc thành lập một cơ quan (hay lực lượng phòng, chống tham nhũng chuyên trách) nhằm thực thi, giám sát và phối hợp việc thi hành các chính sách và hành động chống tham nhũng. Đồng thời, mỗi quốc gia thành viên sẽ dành cho các cơ quan này sự độc lập cần thiết trên cơ sở phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật nước mình nhằm giúp cho những cơ quan này có thể thực hiện chức năng của mình một cách hiệu quả.

Do vậy, Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi cơ chế hoạt động của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng theo hướng tăng tính độc lập của cơ quan này. Tính độc lập của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng không chỉ thể hiện sự độc lập trong thẩm quyền điều tra, xử lý các hành vi tham nhũng mà cần phải độc lập trong tổ chức, hoạt động của cơ quan này[12].

*

Qua nghiên cứu mô hình phòng, chống tham nhũng trên thế giới và ở Châu Âu, có thể rút ra những kinh nghiệm gợi mở cho Việt Nam như sau:

1. Nhà nước, phải đi đầu trong công tác phòng chống tham nhũng.Nhà nước phải nêu cao ý chí quyết tâm mạnh mẽ trong công cuộc phòng chống tham nhũng. Nhà nước nêu cao vai trò của nhà nươc pháp quyền, tăng cường xây dựng hệ thống luật pháp, tăng cường mức độ hình phạt đối với những hành vi tham nhũng. Nhà nước khuyến khích các tổ chức xã hội dân sự nâng cao vai trò trong công tác phòng chống tham nhũng. Có thể thành lập hoặc không thành lập những cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham nhũng nhưng nhà nước phải đề cao trách nhiệm của toàn xã hội khuyến khích cộng đồng, các tổ chức xã hội, các hiệp hội, ... tham gia vào sự nghiệp phòng chống tham nhũng (trường hợp Đan Mạch, Thụy Điển, Cộng hòa Liên bang Đức, ...). Nhà nước cần đưa ra các chính sách kinh tế, chính sách xã hội đúng đắn và hợp lý, kiểm soát thuế thu nhập cá nhân và các mã số thuế cá nhân, mua sắm, ... hợp lý nhằm phòng ngừa và phát hiện những hành vi tham nhũng (trường hợp các nước Bắc Âu). Các nước Bắc Âu phải nộp thuế thu nhập cá nhân cao nhất thế giới (55,6%), Cục Quản lý thuế trung ương quản lý thuế chặt chẽ qua mã số thuế cá nhân, thường xuyên đối chiếu, kiểm tra các chế độ hưởng an sinh xã hội. Vì vậy đã tránh được sự gian lận trong các bảo hiểm y tế, thất nghiệp, các quỹ công cộng, góp phần phòng chống sự tham nhũng. Chính phủ có trách nhiệm xây dựng cơ chế “Quản trị tốt”, đề cao công khai, trách nhiệm giải trình và hiệu suất của chính phủ, cho phép người dân giám sát công chức, chính trị gia buộc họ phải có trách nhiệm khi đưa ra các quyết sách và hành động. Chống tham nhũng có hiệu quả ở khu vực công, công khai thông tin về ngân sách nhà nước nhằm ngăn chặn lãng phí, tránh sử dụng sai nguồn ngân sách công, gia tăng sự giám sát của công chúng trong suốt quá trình lập, phân bổ, sử dụng ngân sách. Chính phủ đã xây dựng các bộ quy tắc ứng xử cho đội ngũ cán bộ công chức nhà nước, yêu cấu các bộ trưởng công khai thông tin và các khoản chi phí đi lại, quà tặng, v.v.

2. Doanh nghiệp là trọng tâm trong công tác phòng, chống tham nhũng. Một nguyên nhân góp phần giảm tham nhũng là chương trình tập trung vào “trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp” của các nước Bắc Âu. Các doanh nghiệp đều xây dựng chiến lược chống tham nhũng, coi đó là một phần tạo nên thương hiệu của doanh nghiệp. Người dân Bắc Âu chú ý nhiều hơn đến phương diện chính trị khi đi mua sắm, đó là trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp đối với các sản phẩm mà họ mua. Các nước Bắc Âu không chấp nhận tham nhũng trong mọi hoàn cảnh, không dung thứ với các hành vi tham nhũng, các doanh nghiệp sử dụng hệ thống “Người thổi còi” (là người tố cáo sai phạm) nhằm phát hiện các vụ việc tham nhũng để có hành động chống lại những hành vi đó. Các doanh nghiệp ở Bắc Âu có nghĩa vụ xây dựng và thực hiện quy tắc ứng xử của nhân viên, đề ra các giải pháp phòng ngừa tham nhũng, cam kết không đưa hối lộ, nếu có doanh nghiệp đưa hối lộ, bị phát hiện giám đốc doanh nghiệp sẽ bị xử lý.

3. Thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch.Ở nhiều quốc gia phát triển châu Âu như Cộng hòa Liên bang Đức, Anh, 4 nước Bắc Âu, ... nhờ thực hiện tốt nguyên tắc này mà đã góp phần ngăn ngừa tham nhũng một cách hiệu quả nhất. Chính phủ có trách nhiệm phải công khai các quy trình thủ tục, rút thăm làm thủ tục hành chính thông qua máy. Mọi người đều biết thứ tự của nhau và ngăn ngừa tham nhũng do chạy chỗ, coi trọng tính công khai, minh bạch trong các hoạt động đấu thầu, mua sắm tài sản công. Các cơ quan thanh tra, kiểm toán, ủy ban liêm chính, cảnh sát được quyền yêu cầu bắt buộc đối tượng điều tra phải cung cấp thông tin, giải trình, nếu phát hiệu cung cấp sai thì bị khép vào tội hình sự. Luật pháp của Anh, Pháp, Thụy Điển quy định tất cả các tài liệu của chính phủ và các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương (trừ tài liệu thuộc bí mật quốc gia) đều phải được đăng tải công khai trên báo chí và trên mạng internet, kể cả mức lương của thủ tướng và bộ trưởng. Mọi công chức nhà nước đều có quyền và trách nhiệm cung cấp các thông tin về tổ chức và hoạt động của cơ quan mình cho phóng viên báo chí và không ai được phép điều tra, tìm hiểu để xác định nguồn của các thông tin đăng tải trên báo chí. Chính vì vậy, quá trình thực thi pháp luật được đảm bảo và nạn tham nhũng không có nhiều cơ hội để tồn tại. Sự tham gia của công chúng và xây dựng các cơ chế minh bạch như cung cấp công khai, đầy đủ thông tin, tạo ra các “cơ chế liêm chính” được vận hành nhịp nhàng, đồng bộ ở các quốc gia Bắc Âu. Xây dựng văn hóa hành chính công mạnh mẽ, thực hiện liêm chính nghiêm chỉnh, chống tham nhũng, xây dựng thói quen công khai minh bạch. Xã hội Bắc Âu đang sử dụng mức độ cao về số hóa liên quan đến các ngành, các công ty nhà nước và công dân. Điều đó có nghĩa các nước Bắc Âu đã xây dựng một cơ sở tối ưu để tăng cường tính minh bạch và dân chủ, quy trình ra quyết định, phục vụ mục tiêu đảm bảo sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên kĩ thuật số trong xã hội thông qua công nghệ mở và mức độ hợp tác công tư cao. Văn hóa làm việc ở các nước Bắc Âu theo định hướng nhóm, không chính thức, dựa trên đối thoại cởi mở giữa quản lý và nhân viên. Vấn đề đào tạo được ưu tiên cao tại nơi làm việc, bao gồm các khóa học đại học. Văn hóa chính trị ở đây, cả các tổ chức công cộng và tư nhân được đánh giá rất minh bạch, do đó các chính trị gia và các doanh nghiệp bị ràng buộc trách nhiệm với những vi phạm của họ. Các phương tiện truyền thông đóng vai trò nổi bật trong hệ thống liêm chính ở đây và còn được gọi là quyền lực thứ tư của nhà nước, có vai trò quan sát ba quyền lực kia, đảm bảo chúng hoạt động đúng đắn.

4. Đề cao vai trò của giáo dục.Ở các nước Châu Âu nội dung phòng chống thm nhũng được đưa vào giảng dạy trong hệ thống trường học để giúp học sinh ý thức được nguyên nhân, hậu quả, tác hại của việc tham nhũng, giáo dục ý thức lên án tham nhũng ngay từ khi còn nhỏ. Nhà nước và xã hội đẩy mạnh tuyên truyền, phòng, chống tham nhũng trên các phương tiện thông tin đại chúng, thành lập các trung tâm thông tin về tham nhũng và lập quỹ phòng chống tham nhũng. Ỏ Hà Lan, đã tổ chức nghiên cứu xây dựng hệ thống quản lý những lĩnh vực có thể phát sinh hành vi tham nhũng và kiểm soát chặt chẽ những công chức làm việc trong lĩnh vực đó. Từ đó, đã xây dựng hệ thống quyền hạn và trách nhiệm của các công chức nhà nước, trong đó ghi rõ trách nhiệm đối với công chức vi phạm đạo đức công vụ, xây dựng hệ thống an ninh quốc gia chuyên trách có quyền hạn rất lớn trong việc phát hiện các hành vi tham nhũng và chống tham nhũng. Tổ chức hệ thống khắt khe và khách quan để tuyển chọng công chức vào những chức vụ có điều kiện dẫn đến hành vi tham nhũng.

5. Kiểm tra giám sát lẫn nhau. Ở các nước Tây Âu, việc chống tham nhũng được nhấn mạnh ở khâu thể chế, tức là việc tổ chức bộ máy nhà nước sao cho các nhánh quyền lực có thể kiểm tra, giám sát lẫn nhau và thiết lập sự kiểm soát từ xã hội.  Xây dựng một cơ chế kiểm soát quyền lực đủ sức ngăn chặn các hành vi lạm quyền, chuyên quyền, sử dụng quyền lực vì mục đích tối đa hóa lợi ích của bản thân.

6. Thành lập tổ chức phòng, chống tham nhũng độc lập.Đấu tranh chống tham nhũng tức là đấu tranh chống lại các hành vi trái luật của những người có trách nhiệm, quyền hạn nằm trong bộ máy nhà nước, hay nói cách khác là đấu tranh với thói hư tật xấu của những kẻ cầm quyền. Cuộc chiến này không giống như hoạt động chống các tội phạm thông thường. Do đó, để đạt hiệu quả không nên chỉ chú trọng giao nhiệm vụ chống tham nhũng cho các cơ quan bảo vệ pháp luật mà phải thành lập tổ chức chống tham nhũng độc lập với các cơ quan nhà nước trực thuộc người đứng đầu chính phủ. Kinh nghiệm này đã được áp dụng và mang lại những kết quả to lớn ở nhiều quốc gia như Anh, Cộng hòa liên bang Đức, v.v.. Các nước này đã thành lập các cơ quan chuyên trách chống tham nhũng trực thuộc tổng thống hoặc thủ tướng, có vị trí độc lập với cơ quan hành pháp và các cơ quan khác.

7. Chống tham nhũng phải từ trên xuống dưới.Chống tham nhũng phải bắt đầu từ trên xuống dưới. Muốn trị tận gốc căn bệnh tham nhũng, cần phải bắt đầu từ lãnh đạo cấp trên, từ các cơ quan, các tổ chức có quyền hoạch định, thực thi và kiểm soát chính sách, có quyền điều phối nguồn lực và tài chính, vì rằng đó chính là các cơ quan và các nhân đại diện cho quyền lực của đảng và nhà nước, là khâu gần với các hành vi tham nhũng hơn cả. Ở Nga, chính phủ đã thực hiện chiến dịch: bàn tay sắt trong cuộc chiến với nạn tham nhũng, kiên quyết xử lý các quan chức lạm quyền trong bộ máy nhà nước, đặc biệt là các quan chức ở trung ương, nhất là trong bộ máy hành pháp cỏ hành vi tham nhũng, bao che cho tội phạm tham nhũng. Trong chiến dịch chống “tội phạm đeo quân hàm” năm 2007, hàng loạt sĩ quan, trong đó có cả những sĩ quan cấp tướng đã bị truy tố trước pháp luật. Hàng loạt các nhân vật cấp cao trong bộ máy của Đảng, chính phủ cũng bị miễn nhiệm, cách chức, truy tố vì liên quan đến tham nhũng như: viện trưởng viện công tố Liên ban Vladimia Uxtinop, phó ban điều tra các vụ án đặc biệt quan trọng thuộc cục  điều tra thi hành án Moscow Dumovets về tội nhận 0.5 triệu USD tiền hối lộ để tha bổng 2 bị cáo phạm tội buôn lậu, ...

8. Phát huy vai trò của báo chí và truyền thông. Thực tế cho thấy, báo chí không chỉ có công lớn trong việc phát hiện, bóc trần các hành vi tham nhũng mà nó còn là lực lượng chủ yếu để tuyên truyền vận động nhân dân, giáo dục nâng cao nhận thức của người dân trong đấu tranh chống tham nhũng. Tuyên truyền những hình mẫu về chống tham nhũng, gương điển hình, cách làm hay trong phòng chống tham nhũng. Báo chí và truyền thông đã thông tin kịp thời, khách quan tình hình tham nhũng, chống tham nhũng, phản ánh trực tiếp các vụ việc tham nhũng, kể cả chưa được làm sáng tỏ, tạo sức ép dư luận, hình thành các phong trào chống tham nhũng. Chính vì vậy, việc phát huy vai trò của báo chí và truyền thông trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một gợi ý rất to lớn. Đây là kinh nghiệm hết sức quý báu mà các nước phát triển ở Tây và Bắc Âu đã áp dụng và mang lại những thành công to lớn. Ở Đan Mạch, báo chí có quyền lực rất lớn, giám sát cả ba nhánh quyền lực lập pháp,  hành pháp, tư pháp[13].

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



[1]“Đề cương tuyên truyền phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí”, tải tại www.langson.gov.vn/...ngày  6 /03/2017.

[2]Xem Điều 1 Pháp luật phòng, chống tham nhũng năm 1998.

[3]Xem thêm Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005.

[4]Bộ Giáo dục và Đào tạo “Tài liệu giảng dạy về phòng, chống tham nhũng dùng cho các trường Đại học, cao đẳng và không chuyên về Luật”.

[5]Xem Điều 3 Luật phòng chống tham nhũng năm 2005.

[6]  Xem chú thích 4 trang 19- 27.

[8]Chính thức mở trung tâm chống tham nhũng quốc tế, tải tại:

http://baodatviet.vn/the-gioi/tin-tuc-24h/chinh-thuc-mo-trung-tam-chong-tham-nhung-quoc-te-3308352/

[10]Phòng chống tham nhũng trên thế giới, kinh nghiệm cho Việt Nam, tải tại: http://cand.com.vn/Xa-hoi/Phong-chong-tham-nhung-tren-the-gioi-kinh-nghiem-cho-Viet-Nam-27187/

[11]Phòng chống tham nhũng trên thế giới, kinh nghiệm cho Việt Nam, tải tại: http://cand.com.vn/Xa-hoi/Phong-chong-tham-nhung-tren-the-gioi-kinh-nghiem-cho-Viet-Nam-27187/

[12]Mô hình cơ quan chống tham nhũng của một số quốc gia Đông Nam Á – bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, tải tại: http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/quoc-te/item/1511-mo-hinh-co-quan-chong-tham-nhung-cua-mot-so-quoc-gia-dong-nam-a-%E2%80%93-bai-hoc-kinh-nghiem-cho-viet-nam.html

[13]Chống tham nhũng kinh nghiệm ở một số nước, tải tại: http://nguoibaovequyenloi.com/User?ThongTin_ChiTiet.aspx?

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114522727

Hôm nay

2259

Hôm qua

2325

Tuần này

21501

Tháng này

220666

Tháng qua

121009

Tất cả

114522727