Xứ Nghệ ngày nay
Ký ức Làng
Làng tôi, ngày nay thuộc xã Thanh Yên, huyện Thanh Chương một xã thuộc vùng trung du tỉnh Nghệ An, là một làng chủ yếu làm nông nghiệp. Chẳng nhiều người viết về làng dù mỗi lần gặp gỡ nhau nơi đất khách quê người đều thi nhau kể về làng, về quê mình với điệp ngữ “trước đây”. Trong một cơ duyên tìm hiểu về làng xã ở Nghệ An, chúng tôi đã tiến hành một cuộc khảo sát hơn 30 người cao tuổi trong làng về lịch sử làng. Kết quả đã đưa ra được nhiều thông tin, dù vụn vỡ nhưng cũng giúp nhiều người hình dung thêm về sự biến đổi của làng xã hơn nửa thế kỷ qua.
Di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật Quốc gia đền Hữu - một biểu tượng của làng Xuân Bảng xưa, nay là xã Thanh Yên.
Làng trước 1945
“Trước 1945, khu vực làng hiện nay dân cư còn thưa thớt, đường sá đi lại khó khăn. Dân chủ yếu tập trung phía gần Bàu Ó và một phần phía dưới giờ là trung tâm xã Thanh Khai. Ngoài Đền Hữu có từ lâu đời thì còn có Đình Phúc Yên và Đình Xuân Bảng, là nơi tập trung các sinh hoạt lớn của cả làng. Đình Xuân Bảng gồm đình thượng và đình hạ. Cột đình to một người ôm không xuể, có kiến trúc chạm trổ độc đáo. Đình làng Phúc Yên cũng tương tự, nhưng bé hơn. Nếu đình thượng quanh năm đóng cửa chỉ mở vào dịp lễ cúng Thành hoàng thì đình hạ lại mở cửa thường xuyên để bàn việc làng. Sân đình cũng là nơi người dân tập trung vui chơi, thực hành các sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Xung quanh làng ngày trước là các hồ nước, vùng nước sâu, khó san lấp để cấy lúa được. Người dân cứ lấn dần để cấy lúa. Hệ thống mương máng chưa đầy đủ nên diện tích ruộng rất ít, chủ yếu là đất trồng ngô, trồng khoai thôi. Đê điều còn nhỏ, kém nên năm nào cũng bị lũ lụt. Quanh xã còn có nhiều bãi cây, lùm cây um tùm. Trong làng có một số giếng làng, là nơi lấy nước chung của cả làng, được đào lớn và lát đá đẹp, bảo vệ sạch sẽ. Xung quanh Bàu Ó có một số bến do người dân làm nên để giặt giũ”. Đây là một đoạn ký ức của một người đàn ông năm nay đã ngoài 90 tuổi, và đã được nhiều người khác thảo luận thêm khi nói về vấn đề này. Qua những thông tin này cũng cho chúng ta thấy được cảnh quan làng trước Cách mạng Tháng Tám 1945 một cách tổng quan. Đó là cảnh quan làng khá cổ điển, có đền thờ Đức Thánh, có đình thờ Thành Hoàng làng, sân đình là nơi người dân tập trung sinh hoạt cộng đồng cũng như bàn việc làng xã. Cảnh quan xung quanh làng còn hoang sơ, đường sá đi lại còn chật hẹp và khó khăn. Dân cư thưa thớt hơn, tập trung chủ yếu quanh khu vực trung tâm làng. Diện tích ruộng sản xuất hẹp nhưng mặt nước lại lớn do có nhiều ao hồ, vùng nước sâu. Có những giếng làng và các bến nước quanh bàu để sinh hoạt.
Làng thời bao cấp
Sau khi cách mạng thành công, tổng Xuân Lâm bắt đầu chia thành các xã. Một phần làng Xuân Bảng và một phần làng Phúc Yên được nhập lại thành xã. Qua nhiều lần thay đổi, tách rồi nhập và đến hiện nay là xã Thanh Yên. Tính ra, từ sau 1945 cho đến khi Đổi mới 1986, cảnh quan làng có nhiều biến đổi. Sau 1954, miền Bắc bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, các hợp tác xã cũng bắt đầu được hình thành, đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân bắt đầu thay đổi. Sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh. Khai khẩn các vùng đất quanh xã để sản xuất được quan tâm. Hệ thống thủy lợi cũng được xây dựng và cải tạo. Đề điều được tu bổ hàng năm. Do vậy, diện tích sản xuất được mở rộng hơn. Nhưng khi vào cải cách văn hóa, chính quyền bắt đầu dỡ bỏ các thiết chế cũ. Đình làng một phần bị hư hại do chiến tranh, sau này lại bị hạ xuống để lấy gỗ làm các công trình khác. Đình dần biến mất khi không còn là nơi tập trung sinh hoạt văn hóa của người dân cũng như bàn việc tập thể. Đền Hữu dù không được quan tâm nhiều nhưng vẫn được giữ lại để làm nơi sinh hoạt tâm linh. Phần đất quanh đền được đưa vào để canh tác hoa màu. Các giếng nước của làng và các bến nước quanh Bàu Ó vẫn được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh đó, nhiều cảnh quan mới được xây dựng. Khi đó cả xã chia thành nhiều đội. Hai đến ba đội thì xây dựng một nhà kho. Ngoài việc chứa lương thực thì sân kho cũng là một nơi để sinh hoạt cộng đồng như chiếu bóng, tổ chức biểu diễn văn nghệ quần chúng, chia lương thực sau khi thu hoạch…. Cửa hàng mậu dịch với việc xếp hàng dài chờ mua lương thực phẩm. Sân vận động để diễn tập, thao tập các lực lượng dân quân, tự vệ còn là nơi tổ chức thể thao, chiếu phim, biểu diễn văn công và nhiều sinh hoạt khác. Với nhiều người cao tuổi, một số cảnh quan thời bao cấp là một phần ký ức của họ. Một cụ ông 81 tuổi chia sẻ về sân kho: “Có nhiều đêm, chúng tôi đốt đèn ra sân nhà kho để tổ chức biểu diễn văn nghệ. Mọi thứ đều thô sơ, từ trang bị cho đến con người. Ấy vậy mà ai cũng hăm hở tham gia. Sân kho lúc đó gắn với hầu hết mọi hoạt động. Có nhiều đám cưới được tổ chức ngay tại sân nhà kho. Rồi khi có lễ tết, có con lợn để làm thịt cũng mang ra nhà kho. Lúc đó, con người ta đối xử với nhau tình cảm lắm. Đời sống vật chất khó khăn nhưng tinh thần thì không thiếu. Sẵn sàng chia nhau những thứ mình có. Có thể nói cả một thời trai trẻ chúng tôi gắn với sân kho”. Hay một cụ bà 78 tuổi nói về cửa hàng mậu dịch: “Trong cái đói nghèo chung, chúng tôi vẫn xếp hàng ở cửa hàng mậu dịch quốc doanh để chờ mua thực phẩm. Từ sáng sớm đã ra xếp hàng, có lúc quá trưa còn chưa đến lượt. Ấy vậy nhưng người ta không tranh cướp, ít khi có xô xát hay tranh chấp lẫn nhau vì mọi người đều chờ nhau xếp hàng và theo lượt chứ không có phân biệt. Sau này thấy vậy thì thấy khổ quá. Nhưng khi đó con người ta chấp nhận. Và giờ thấy cũng thú vị. Nó là một phần trong cuộc đời chúng tôi”.
Như vậy, cảnh quan làng trong thời bao cấp đã có những biến đổi cả về tự nhiên lẫn xã hội và văn hóa. Đình làng hư hại và bị dỡ bỏ. Đền Hữu cũng hoang sơ hơn, hư hại đi nhiều và không được tu bổ thêm nhưng cũng may mắn không bị phá hủy. Một số cảnh quan giếng làng, bến nước vẫn còn. Bên cạnh đó, một số không gian, cảnh quan mới được xây dựng như nhà kho, sân vận động, hợp tác xã, cửa hàng mậu dịch,…. Một điều đáng chú ý khác là lúc đó, để có diện tích đất sản xuất chính quyền có chính sách yêu cầu người dân di dời toàn bộ mộ táng từ dưới đồng ruộng lên núi. Và từ đó về sau không còn chôn cất ở dưới đồng nữa, tập trung lên các núi trong làng.
Làng sau Đổi mới
Từ sau Đổi mới 1986, làng tôi thay đổi nhiều. Hiện nay, làng tôi (nói đúng hơn là xóm tôi) cũng như nhiều làng khác, được bao quanh bởi các con đường bê tông sạch sẽ chạy xuyên vào các ngõ ngách. Có một con đường nhựa lớn, là đường liên huyện, bắt nguồn từ đường quốc lộ chạy xuyên từ đầu đến cuối làng rồi ra đến uỷ ban và nối với các đường khác để đi qua các xã khác. Là một làng xóm thuộc khu vực trung du nên cũng có nhiều nét riêng biệt. Quanh làng có một số ngọn núi nhỏ, là khu vực đất mộ táng, nơi tập trung hầu hết nghĩa địa của các dòng họ trong cả xã. Dọc các đường lớn có nhiều ki ốt hàng quán bán tạp hóa và các loại hàng hóa thiết yếu cho đời sống người dân trong vùng. Các con đường ra giữa các cánh đồng, các thửa ruộng cũng được mở rộng và chắc chắn hơn. Hiện tại xóm nào cũng đã có nhà văn hoá và sân bóng chuyền, bóng đá, là kết quả của quá trình xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hoá mới. Nhưng nhà văn hoá thỉnh thoảng mới mở cửa khi có công việc họp hành của xóm, bình thường thì ít khi có người lui tới. Sân bóng chủ yếu dành cho lớp trẻ chơi thể thao như bóng chuyền, bóng đá, cầu lông. Gần đây, có khá nhiều phụ nữ, cả trẻ lẫn luống tuổi tham gia chơi bóng chuyền hơi ở sân nhà văn hoá và sân bóng. Hầu hết trong làng xã không còn nhà tranh vách đất nữa, chủ yếu là nhà xây kiên cố, số lượng nhà tầng ngày càng tăng lên. Hầu hết các hộ gia đình hiện nay đều xây tường bê tông bao quanh nhà mình và dựng cửa cổng kiên cố. Nhà nào cũng lắp mái tôn để chống nắng ở sân nhà. Cổng vào và phần lớn diện tích trong khuôn viên nhà cửa đều lát gạch hoặc đổ bê tông cả. Đường lớn rải nhựa, đường làng, ngõ xóm đổ bê tông, sân nhà thì dựng mái tôn để che trong khi cây cối từ ngoài đường đến trong vườn đều ít dần. Nếu có thể nhìn từ trên cao xuống thì các làng xóm giờ nhìn như một lò giữ nhiệt khổng lồ vậy.
Nhìn chung, cảnh quan làng xã tôi hiện nay, cũng không khác gì các làng xã xung quanh thuộc khu vực trung du tỉnh Nghệ An này, đều có dáng dấp của làng xóm hiện đại với điện, đường, trường, trạm kiên cố. Đường lớn rải nhựa, đường bé đổ bê tông. Các sinh hoạt văn hoá tập thể tuỳ theo cấp độ xóm xã mà tổ chức ở nhà văn hoá, sân bóng của xóm, xã. Không chỉ cảnh quan làng xóm mà điều kiện vật chất, tinh thần của người dân cũng hiện đại hơn nhiều. Trong làng ngày càng nhiều người có xe ô tô. Nhà nào cũng có một hai, thậm chí là ba bốn chiếc xe máy từ loại ít tiền đến loại cả trăm triệu đồng. Rồi điều hoà, máy giặt, tivi, tủ lạnh,… hàng loạt các trang thiết bị sinh hoạt hiện đại ngày càng phổ biến. Hầu hết người dân đều sử dụng điện thoại di động với nhiều loại khác nhau. Có lẽ, trong quá trình xây dựng nông thôn mới, đây như là một mô hình phổ biến với các thiết chế văn hóa gần như tương đồng nhau. Nó khiến cho các làng xóm, nhìn na ná giống nhau nhưng lại không giống nhau bởi trong đó là những con người khác nhau.
Người già với “làng truyền thống” và “làng hiện đại”
Với người cao tuổi, họ vẫn nhớ về cái đình làng, về các giếng làng, các bến nước, cái sân kho hay thậm chí cái cửa hàng mậu dịch. Họ nhớ về những đêm diễn văn nghệ quần chúng hay xem văn công, xem phim màn ảnh rộng. Và họ vẫn nhớ về những ngôi nhà đi vắng cả ngày nhưng không đóng cửa. Đó là làng của thời cách mạng, của thời bao cấp trong không khí làm ăn tập thể, sản xuất hợp tác xã và phục vụ kháng chiến. Trong làng bây giờ, họ là người già, là những người được cho là thuộc về xã hội cũ, đang chứng kiến công cuộc hiện đại hóa của làng mà chủ nhân là con, cháu họ. Với họ, cái làng truyền thống chỉ còn trong ký ức, còn cái làng hiện tại lại không có bóng hình của mình. Nhiều người già nhìn về “làng hiện đại” trong sự bỡ ngỡ, lạc lõng: “Bây giờ, không còn làng nữa. Làng bọn tôi sống ngày trước khác nhiều lắm. Các sinh hoạt văn hóa xã tổ chức theo phong trào vậy thôi. Các không gian mới như nhà văn hóa, sân bóng cũng vậy, chỉ dành cho bọn trẻ vui chơi nhảy múa thôi. Giờ nhà nào cũng kín cổng cao tường cả, có mấy khi quan tâm đến nhau như trước nữa đâu. Trừ khi có việc gì thì mới qua lại thăm hỏi nhau. Chẳng bù cho bọn tôi ngày trước, ngày nào cũng tập trung nhau lại để uống nác chè xanh và trò chuyện. Có việc gì cũng cùng nhau tập trung lại làm giúp nhau cho nhanh xong. Bọn trẻ bây giờ không quan tâm gì việc làng xóm. Chúng chỉ biết sống cho mình thôi. Mà có mấy đứa ở lại làng xóm đâu. Đi ra ngoài hết. Tết nhất về thì tụ tập ăn nhậu, bài bạc rồi quậy phá”. Đó là suy tư của một cựu cán bộ xã đã về hưu hơn hai chục năm trước khi chia sẻ về làng.
Điệp ngữ “bọn tôi ngày trước” hay “làng tôi trước đây” được nhiều người nhắc đi nhắc lại nhiều lần như để ám chỉ về sự phân biệt thế hệ. Thực tế, nhiều người lớn tuổi đối diện với quá trình hiện đại hóa đang cảm thấy hoang mang. Nhiều giá trị mới khiến họ khó có thể tiếp nhận được. Trong bối cảnh đó, họ quay lại nhớ về những giá trị của thế hệ mình, nhớ về làng cũ, bạn cũ. Cái “làng hiện đại” trong mắt họ không phải là làng. Vì cái làng của họ có kết cấu mở với cảnh quan sinh thái hoang sơ hơn. Còn cái làng hiện nay có kết cấu đóng, nhà nào cũng kín kẽ cả về cảnh quan lẫn cuộc sống. Nhưng không phải ai cũng bài trừ những giá trị của cái làng hiện nay, bởi họ hiểu cuộc sống thay đổi thì làng cũng thay đổi. Như một người già kết luận: “Làng thời cha ông mình nó khác. Làng thời anh em mình cũng khác với trước đó. Và giờ làng của con cháu mình cũng vậy thôi. Dù sao thì vẫn là cái làng mình sinh ra và xây dựng, giờ là con cháu mình tiếp nối đấy thôi. Nó không làm được khác đi thì hóa ra con cháu lại kém hơn cha ông”./.
tin tức liên quan
Videos
Các di sản văn hóa về Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Thừa Thiên Huế
Quê hương Nghệ Tĩnh trong lòng La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp
Khu di tích Kim Liên hành trình đến với trẻ em miền núi
Người Amish ở Mỹ
Đền Hồng Sơn
Thống kê truy cập
114511601
2264
2336
21975
218474
121356
114511601