Non nước Việt Nam

Lăng Đồng Khánh, một mốc đặc biệt của kiến trúc lăng tẩm Huế

Lăng vua Đồng Khánh, tên chữ là Tư Lăng, là di tích lăng mộ vị vua thứ 9 của triều Nguyễn-Cảnh Tôn Thuần Hoàng đế, niên hiệu Đồng Khánh, trị vị trong hơn 3 năm (1885-1889), trong giai đoạn rối ren nhất của triều Nguyễn.

Vua Đồng Khánh được người Pháp đặt lên ngôi sau khi cuộc phản công của triều đình Huế tháng 7/1885 thất bại, vua Hàm Nghi phải "xuất bôn" lên vùng núi phía tây Quảng Trị. Đồng Khánh thực chất chỉ là ông vua bù nhìn vì thực dân Pháp đã làm chủ Việt Nam. Theo chân thực dân, văn minh Tây phương cũng ào ạt xâm nhập vào nước ta, khiến xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi quan trọng. Cũng như các lĩnh vực thượng tầng kiến trúc xã hội khác, nền kiến trúc nước ta cũng có những chuyển biến rõ rệt, mà thể hiện tiêu biểu là quá trình "Tây hóa" các kiến trúc cung đình. Tư Lăng-lăng Đồng Khánh chính là sự mở màn, là mốc đánh dấu của sự biến đổi trên.

Tư Lăng tọa lạc tại địa phận làng Dương Xuân Thượng, huyện Hương Thủy (nay là thôn Thượng Hai, xã Thủy Xuân, Thành phố Huế), cách Kinh thành Huế chừng 7km về phía tây nam.

Lịch sử Tư lăng rất phức tạp do tính chất thụ động của việc xây dựng khu lăng mộ này.

Vua Đồng Khánh không ngờ mình mất quá sớm, chỉ sau hơn 3 năm tại ngôi, nên chưa kịp chuẩn bị đất dựng lăng cho bản thân. Nguyên ở khu vực lăng hiện nay, trước đã có tẩm mộ Kiên Thái vương, thân phụ vua Đồng Khánh (đồng thời cũng là cha đẻ 2 vua Hàm Nghi và Kiến Phúc). Sau khi lên ngôi, vua Đồng Khánh mới cho xây điện Truy Tư, cách đó khoảng 100m về phía đông nam để thờ cha. Công trình đang dở dang thì vua Đồng Khánh lâm bệnh rồi băng hà ngày 28/1/1889. Vua Thành Thái kế vị đã quyết định dùng điện Truy Tư để thờ vua Đồng Khánh, đổi tên thành điện Ngưng Hy, còn bài vị Kiến Thái vương được đưa về thờ tại Hân Vinh từ đường, bên bờ sông An Cựu. Lăng mộ vua Đồng Khánh được xây cách điện thờ khoảng 100m về phía tây nam nhưng chỉ làm rất đơn giản. Tháng 8/1916, con trai vua Đồng Khánh, vua Khải Định cho tu sửa lăng với các vật liệu hiện đại. Những năm 1921, 1923, khu vực điện thờ lại được trùng tu.

Như vậy công cuộc xây dựng Tư lăng đã diễn ra nhiều đợt trong thời gian gần 35 năm. Sự phức tạp của lịch sử xây dựng lăng để lại dấu ấn rất rõ trên kiến trúc khu lăng mộ này.

Tương tự như lăng mộ các vị vua Nguyễn khác, Tư lăng gồm có 2 phần: khu điện thờ và khu lăng mộ.

Khu điện thờ tọa lạc trên một ngọn đồi, quay mặt hướng đông nam, lấy đồi Thiên An, cách đó 3km làm tiền án. Toàn bộ khu vực này có vòng tường xây gạch hình chữ nhật bao bọc. Tường cao 3m, dày 0,55m, chu vi 262m; khoảng giữa 4 mặt đều trổ cửa. Cửa hậu và hai cửa bên đều làm theo lối cửa vòm cuốn, có mái đúc giả ngói, còn cửa chính phía trước, mang tên Cung Môn làm bằng gỗ, kiểu 3 gian, 2 tầng, mái lợp ngói ống lưu li, đỉnh mái gắn bầu thái cực bằng pháp lam rất đẹp. Từ nền Cung Môn đi ra phía trước có đến 15 bậc cấp bằng đá Thanh, 2 bên đắp rồng chầu thành bậc, đi ra phía sau có 3 bậc cấp dẫn xuống sân trước điện Ngưng Hy.

Điện Ngưng Hy là ngôi điện chính của khu điện thờ, cấu trúc kiểu nhà kép trùng thiềm điệp ốc với 3 ngôi nhà ghép liền nhau đặt trên 1 mặt nền thống nhất, gần như vuông (25m x 24m). Nền điện cao 0,8m, lát gạch hoa, bó vỉa bằng đá Thanh. Cả 3 phần của điện đều 7 gian, 2 chái với tổng cộng 100 cây cột gỗ lim sơn son thếp vàng rực rỡ. Hệ thống vì kèo của tiền điện làm kiểu giả thủ rất thanh nhã; chính điện và hậu điện có vì kèo kiểu cánh ác nhưng chính điện có trần gỗ che kín. Phần mái có 3 căn: tiền điện, chính điện và hậu điện nối liền với nhau bằng 2 máng xối đồng. Đây cũng là ngôi điện duy nhất của kiến trúc Cung đình Huế có kiểu kết cấu như vậy.

Điểm độc đáo nữa của điện Ngưng Hy là toàn bộ hệ thống cửa, cửa sổ, các khung đố bản đều được lắp kính màu của Pháp tạo cho nội thất điện có màu sắc rất rực rỡ. Các đề tài trang trí truyền thống như bát bửu, ngũ phúc, tứ thời... được thể hiện đậm đặc ở cả nội, ngoại thất điện thông qua chạm khắc, khảm, sơn mài. Nhưng đáng nói nhất vẫn là hệ thống phù điêu bằng đất nung trang trí ở bên ngoài công trình. Những phù điêu gốm này được thể hiện cực kỳ sinh động và tràn đầy khí sắc chứ không đơn điệu, gò bó như các mô típ trang trí cung đình quen thuộc. Rõ ràng đây là sản phẩm của dòng trang trí dân gian đã tràn ngập vào chốn cung đình khi các khuôn khổ bị phá bung.

Trong khám thờ tại chính điện, ngoài bài vị vua Đồng Khánh, 2 bên tả, hữu còn thờ bài vị 2 hoàng hậu Thánh cung, Tiên cung kèm theo chân dung của họ do họa sĩ Việt Nam vẽ lúc đương thời. Trong điện còn trưng bày hơn 400 hiện vật là đồ tự khí và đồ ngự dụng của vua, hoàng hậu.

Phía trước điện Ngưng Hy, bên tả là Công Nghĩa đường, bên hữu có Minh Ân điện, đều kết cấu kiểu 3 gian 2 chái, dùng làm nơi thờ các công thần. Sau điện, 2 bên có Tả, Hữu tòng viện, cũng kết cấu kiểu 3 gian 2 chái, dùng làm nơi sinh sống của các cung phi sau khi vua mất.

                                                            ***

Khu lăng mộ cũng nằm trên một ngọn đồi cao, quay mặt về hướng đông- đông- nam, lấy ngọn Thiên Thai làm tiền án, cấu trúc tương tự lăng mộ các vua Nguyễn tiền triều nhưng đã dùng vật liệu xi măng sắt thép. Mộ vua Đồng Khánh nằm trong 3 vòng tường thành xây gạch hình vuông. Vòng tường ngoài (25 x 25m), cao 1,6m, dày 0,5m; vòng tường thứ 2 chỉ cao 0,5m, dày 0,7m; vòng tường thứ 3 cao đến 3,4m, dày 0,6m. Cả 3 vòng tường đều trổ một cửa phía trước; sau cửa ngoài cùng có bình phong trang trí hổ phù và chữ thọ. Mộ vua xây bằng đá Thanh kiểu 1 ngôi nhà có mái, dài 4,2m, rộng 2,6m, bờ nóc và đầu hồi trang trí hình rồng, dơi và chữ thọ.

Phía trước mộ là 3 tầng sân tế rộng 25,7m, tầng sân trên dài 10m, lát gạch carô, tầng sân giữa dài 7m, tầng dưới cùng dài 5,2m, đều lát gạch Bát tràng. Trước nữa là nhà bia hình tứ giác xây gạch, mái đúc giả ngói ống, trong dựng bia Thánh Đức Thần Công bằng đá Thanh. Bia cao 3m, rộng 1,45m, dày 0,16m đặt trên bệ cũng bằng đá Thanh cao 0,6m, rộng 0,8m, dài 2,8m. Trên bia khắc bài văn ca ngợi công đức vua cha của vua Khải Định viết năm 1916. Hai bên nhà bia là 2 trụ biểu xây gạch trát vữa xi măng.

Sân bái đình nằm phía trước nhà bia, ngoài cùng là Nghi môn kiểu tam quan đắp trụ tròn, nền sân lát gạch Bát tràng. Hai bên sân Bái đình thiết trí hai hàng tượng gồm quan văn, quan võ, ngựa, voi, mỗi bên 6 bức. Khác với tượng đá Thanh ở các lăng mộ vua Nguyễn tiền triều, tượng ở đây đắp bằng gạch và vôi vữa, hình thức tượng khá thanh mảnh. Tất cả các bức tượng đều được đặt trên các bệ vuông xây gạch.

                                                            ***

Nhìn chung, về hình thức, Tư lăng cũng được xây dựng theo mô thức  tương tự các lăng mộ các vua Nguyễn khác, nhưng do thiếu sự quy hoạch từ đầu nên cấu trúc hai phần lăng-tẩm tỏ ra thiếu đồng bộ, thiếu vẻ chuẩn mực đăng đối thường có tại các khu lăng tẩm đầu triều. Nét đặc sắc ở đây có lẽ là sự pha trộn về phong cách Đông-Tây trong sử dụng vật liệu (vật liệu truyền thống kết hợp cùng xi măng, kính màu, đồ gốm sứ tây...). Ngoài ra, điện Ngưng Hy với kiểu kết cấu nhà ghép 3 căn mang trên mình nó những hình thức trang trí nghệ thuật hết sức phong phú và độc đáo của nghệ nhân Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX cũng thể hiện rõ sự biến chuyển trong kiến trúc cung đình Huế.

Do đó, về mặt lịch sử kiến trúc, có thể nói, Tư lăng là công trình đánh dấu sự ảnh hưởng của kiến trúc hiện đại vào kiến trúc truyền thống Việt Nam, để rồi mở kỷ nguyên đấu tranh và hòa hợp giữa hai dòng kiến trúc này./.

                                               

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114441614

Hôm nay

214

Hôm qua

2317

Tuần này

21518

Tháng này

216788

Tháng qua

112676

Tất cả

114441614