- Một năm (2/1883 - 1/1884) lãnh chức Chánh sứ, đeo mệnh, và cũng đeo bệnh dọc đường sang Thiên Tân (Trung Quốc), về nước chuyển sang Thượng thư bộ Hộ.
- Ngày 6 tháng 6 năm 1884, tại Kinh đô Huế, là Toàn quyền của triều đình Huế ký Hiệp ước gồm 19 điều khoản với Patenôtre - Sứ thần Cộng hòa Pháp.
- Tháng 8-1884 kiêm Tả Tham tri bộ Công.
- Gần một năm sau, cũng chính ông, một trong những nhân vật chủ chốt phò vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở (Quảng Trị), phát Chiếu Cần Vương ngày 13-7-1885.
Ngày 29 tháng 7 năm 1885 ông bị tay sai Pháp bắt, giam hết trong đất liền (Thương Bạc) đến ra đảo (Côn đảo).
Và, ngày 29 tháng 11 của 125 năm trước, ông mất trên thủy trình đi đày Tahiti- hình hài ông hòa vào với đại dương...
Như vậy, chỉ trong vòng ba năm, bao sự kiện dồn dập, kết nén lại trong cuộc đời của Phạm Thận Duật, phản chiếu không chỉ riêng thân phận Cử nhân - Thượng thư Cơ mật đại thần, mà của đội ngũ trí thức Nho học Việt Nam trong khung/ khổ của quốc gia, vương triều Nguyễn cuối XIX.
1. Nói đến trí thức là nói đến, là không quên: Trí thức là dấn thân hành đạo theo định hướng dẫn đường, cải tạo, xây dựng cộng đồng, xã hội! Đó cũng là đặc điểm, thuộc tính hàng đầu của tầng lớp này, khác biệt đầu tiên với tầng lớp khác.
1851-1885 là 35 năm, bằng toàn bộ cuộc đời tri thức - quan trường của mình, từ khi đỗ cử nhân ra làm quan thời vua Tự Đức, rồi phò tá Hàm Nghi, dù trong bất kỳ cương vị hoàn cảnh nào, cũng là một Phạm Thận Duật, là sự phát triển thống nhất, trọn vẹn không chia cắt sự phát triển hoài bão từ thủa 15 tuổi tỏ chí “mấy chước điều canh cùng một dạ” của chàng trai Yên Mô Thượng. Cuộc đời của Phạm Thận Duật là một điển hình của phẩm chất tri thức Nho học yêu nước, dấn thân, không ngại từ nan khó, hết lòng mẫn cán cùng công việc được trao.
Sáu năm đầu dặm quan trường, Phạm Thận Duật hết làm Giáo thụ Đoan Hùng, rồi Tri châu Tuần Giáo rồi kiêm cả Luân Châu. Dẫu biết “miền biên viễn lam chướng độc hại, nơi “thập tử nhất sinh” trước nay các lưu quan đưa lên bị ốm chết đến quá nửa” (chữ dùng của Phạm Thận Duật), và rồi bản thân cũng bị sốt rét hành thành bệnh đường tiết liệu (mà ông sẽ đeo suốt đời) vẫn tự thức “đó là việc nước, không nên từ nan” trong quản trị, để lại cho đời Hưng Hóa ký lược.
Hai mươi năm trị nhậm vùng Bắc Giang, Bắc Ninh - vùng đất mà nửa sau thế kỷ XIX “mùa màng mất càng nhiều, ngoài thì giặc biên trấn, trong thì lũ gian dân” (Văn võ tỉnh Bắc viếng Bùi Chế đài ) triền miên thổ phỉ, giặc giã, chưa hết từ trên Lạng Sơn kéo xuống, lại Tạ Văn Phụng từ vùng biển Đông bắc tràn sang. Phạm Thận Duật đã mang ước vọng và tinh thần “Từ sự việc ở biên cương mà ném bút cầm gươm thế một lòng giết giặc... ta muốn làm trong sạch vùng biên giới nước ta như thời Trần, thời Lê ngày trước”(1).
Rồi hai năm tiếp bước Hoàng giáp tiền bối Nguyễn Tư Giản, Phạm Thận Duật lao tâm trị thủy hệ thống sông Hồng. Dẫu có lần bị “trừ” 7, 8 tháng lương vì việc hàn đê, vẫn trút tâm, trí tổng kết thành Hà đê tấu tập...
Rồi năm 1878, sung vào Viện Cơ mật, làm Sư bảo (thày dạy) cho hai Hoàng tử Dục Đức, Chánh Mông, sau lại sung Quốc Sử quán, Phó Tổng tài, kiêm quản Quốc Tử giám, Tổng kiểm duyệt và in bộ “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”. Phạm Thận Duật nhận thấy rõ quốc sử là cốt tỏ rõ dấu vết hay dở, thuật lại việc quá khứ, để làm gương cho tương lai; đấng thành nhân cân nhắc phải trái, thu góp mọi lời bàn luận, để lưu truyền lời dạy đúng đắn cho đời sau... Nước Đại Việt ta, dựng bờ cõi ở minh đô, sách trời định rõ núi sông, nết đất đúc nên văn vật, vua chúa đời sau thay đời trước, phong khí ngày một mở mang; thời đại không giống nhau, qui mô cũng mỗi thời một khác….Cho người đọc sách này tôn trọng điều đã được nghe, thực hành điều đã được biết, không khác gì chính mình được thân nghe lời dạy bảo của vua...trước là sáng tỏ được dấu thơm “người sáng tác là bậc thánh, người hoàn thành là bậc minh”, sau là làm gương sáng để soi việc thịnh suy mãi mãi. (Biểu “Cáo thành” 19 tháng 9 năm 1884).
2. Thế nhưng, thời Nguyễn trước năm 1885, ít nhất có hai thế hệ trí thức Nho học đại thần phải đeo một “vòng kim cô” đến thành cô thần, bi kịch.
Không nên quên, chỉ trong vòng chưa đầy một phần tư thế kỷ từ sau sự kiện năm 1862, đến năm 1884 - đã có ít nhất hai trí thức Nho học - Đại thần:
Một tiến sĩ khai khoa Phan Thanh Giản (1790-1867) của vùng đất Nam Bộ - Đất mà nhà Nguyễn coi là “căn bản” của vương triều.
Một cử nhân của vùng đất khoa bảng bên cửa biển Yên Mô phía bắc Phạm Thận Duật (1825-1885).
Cả hai khác nhau về quê quán, truyền thống sinh hoạt, cách nhau hơn một thế hệ, chung nhân cách của trí thức đại thần, chung niềm yêu nước, thương dân, căm thù giặc ngoại xâm… Nhưng, ở cuối thế kỷ XIX, đau xót thay, cả hai ông chung nỗi niềm - không dễ nói ra, khi không chỉ chứng kiến mà còn phải thay mặt vua Nguyễn (Tự Đức - trước 1883) và Dục Đức (năm1884) ký vào văn kiện “hòa ước” mà nội dung chính là phủ nhận từng bước đến triệt tiêu chủ quyền quốc gia, ngược với lý tưởng, kỳ vọng của sự nghiệp mà cả đời các ông phấn đấu hy sinh!
Với hiệp ước năm 1862, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp được cử vào Sài Gòn ký Hòa ước 12 khoản với Bonard, thì trước đó Định Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long ba tỉnh đã mất vào tay Pháp... Tháng 6 năm 1867, thì Pháp hội sẵn quân để lấy An Giang, Hà Tiên...
Phan Thanh Giản chỉ còn biết bảo các quan đành chịu nộp thành trì cho khỏi sự tai hại, dặn lại con cái phải cày ruộng mà ăn chứ không được làm quan chức gì ở cho Pháp rồi uống thuốc độc tự tử.
Không chỉ bậc đại nho như Phan Thanh Giản, mà cả bậc tri thức thời đại - như Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) dâng trình Tế cấp luận “thâu tóm trí khôn của thiên hạ 500 năm nay, nếu được đem ra thực hành trăm năm cũng chưa hết” (Nguyễn Trường Tộ) “đầy bụng kinh luân tám đấu tài”, mà rốt cuộc, viết như Huỳnh Thúc Kháng, chỉ khiến “Người sau nhớ mãi chuyện bi ai. Biển xanh ghi lại châu còn đó, Nghe uất non sông ngay chính đó, Ly tao xua đuổi quốc hồn lai”.
Ngẫu nhiên chăng? Chỉ là bi kịch cá nhân nhà trí thức?
Không thời đại nào dân tộc Việt Nam không có tầng lớp tri thức của mình với những phẩm chất tiêu biểu trên. Tuy nhiên trong suốt lịch sử dân tộc, cho đến tận thời Phạm Thận Duật, Việt Nam chỉ nảy sinh trí thức phụ thuộc chặt chẽ vào vua, vào chúa - triều đình (mà có người gọi đó là tri thức cận/ tôi thần (2)), mà không có điều kiện để nảy sinh, dung dưỡng được những thế hệ trí thức độc lập. Đại bộ phận tri thức Nho học Việt Nam chỉ “thoái” mới “vi sư” (lui về hay khi cạn hết đường làm quan mới làm thày) mở lớp, hay viết sách, làm thơ, văn... truyền bá đạo Nho, hẹp thì Tống Nho, rộng thì Tam giáo (Phật - Đạo - Nho). Khi con đường đó chưa khép lại, thì đều hăng hái gia nhập quan trường (tiến vi quan) để mong thay đổi thân phận bản thân, gia đình (cũng là kiểu tu thân, tề gia) rồi kỳ vọng dùng tri thức Nho học để hành đạo (trị quốc, bình thiên hạ = góp phần cho đất nước xã hội bình yên, ổn định) qua con đường làm quan triều đình. Nói cách khác, vì thế các thế hệ tri thức Nho học Việt Nam, ngay cả đến những đại tri thức - cho đến thế kỷ XIX không hay ít có điều kiện để thực hành, để xây thành thói quen hay thao tác tự thức, truyền bá, khai sáng tư tưởng mới, mà dồn sức, tâm huyết, mà đau thiết đến “huyết lệ” - đổ - máu - mắt cho việc tấu, trình kiến nghị, điều trần lên vua, ngửa mong vua chúa “đèn giời” soi xét.
Đấy là cội nguồn sâu sa, tiềm tàng nảy sinh những bi kịch của thân phận cá nhân hay thế hệ tri thức Nho học, mặc dù không phải lúc nào cũng bộc lộ, mà chỉ hiện ra trong những thời điểm cụ thể của lịch sử Việt Nam, chẳng hạn:
Thế kỷ XIII, trước dân tộc, đất nước, dẫu phải đối đầu với đế chế Nguyên - Mông xâm lăng hùng mạnh và chưa từng có trong lịch sử trước đó, nhưng triều đình Thăng Long - Đại Việt đậm chất gần dân, thân dân với “vua tôi đồng tâm, anh em hòa thuận, cả nước góp sức”. Môi trường ấy thực sự đã tạo thành chân trời rộng mở để nâng cánh không chỉ những trí thức như Trần Cảnh,Trần Hoảng,Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư,... mà cả những Tiến sĩ xuất thân “bình dân” như Lê Văn Hưu, Nguyễn Trung Ngạn, Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh… gắn kết, thống nhất mọi năng lực, nhiệt huyết yêu nước từ trẻ đến già, nhập thân, phát huy sáng tạo vào sự nghiệp cứu nước và xây dựng quốc gia, tạo nên năng lượng dân tộc- làn sóng “vô cùng mạnh mẽ, lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn” của ba lần thách thức sống còn (các năm 1258,1285,1288), đưa đất nước lên vẻ vang trong kỷ nguyên Văn minh Đại Việt.
Hai mươi năm 1407-1427, khi mất nước là nỗi nhục chung của mọi con dân Đại Việt, “căm giặc nước thề không cùng sống” không phải quyền của riêng ai, thì yêu nước cũng trở thành quyền tự do chung của mọi tầng lớp cư dân nước Việt. Các cuộc nổi dậy khởi nghĩa chống quân Minh, liên tục, rộng khắp chứng minh điều đó. Trí thức Nguyễn Trãi thẩm định xét cho cùng mọi lẽ hưng vong để đi đến nhận thức “không bàn chuyện đánh thành mà đánh vào lòng người” hóa thân thành cương lĩnh Bình Ngô sách của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo. Mười năm “hiệu gậy làm cờ, tụ tập khắp bốn phương manh lệ, tướng sĩ một lòng phụ tử… trong đấu tranh gian khổ của dân tộc, đã luyện kết, và giải phóng năng lực, tri thức Ức Trai Nguyễn Trãi “viết thư, thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời”, cùng toàn quân, toàn dân làm nên Chi Lăng, Xương Giang, Hội thề Đông Quan “rửa nỗi nhục ngàn thu”, “cổ kim chưa từng nghe thấy” đi tới ngày đại cáo Bình Ngô.
Đấy là một thời!
Nhưng không phải thời nào cũng thế!
Nửa cuối XIV, gần trăm năm sau những hào sảng Chương Dương cướp giáo giặc, Hàm Tử bắt quân thù (1285) và chỉ hơn chục năm sau thời kỳ “nở rộ nhân tài” - thế - hệ - vàng - ròng trí thức như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn…đã xuất hiện Thất trảm sớ - nhiệt thành tâm huyết của Vạn thế sư biểu Chu Văn An...
Và, cũng chỉ hơn chục năm sau ngày “mở nền thái bình muôn thủa” cho sơn hà Đại Việt, Thái học sinh - Thừa chỉ Nguyễn Trãi đã phải “di hận kỷ thiên niên” qua vụ án tàn khốc năm 1442…trước đám triều đình Lê, triều đình mà chính thế hệ ông đã dâng hiến toàn bộ trí năng, tâm thành của tuổi thanh xuân để dựng xây nên...
Rồi thời Lê - Trịnh thế kỷ XVIII đâu chỉ có bi kịch của Tiến sĩ Thái thường Bùi Sỹ Tiêm - với huyết lệ Điều trần... những việc cần làm ngay v.v...
Năm 1802, sau những binh đao chia cắt, loạn ly (nội chiến đàng Trong, đàng Ngoài thế kỷ XVII, lại tao loạn (giữa thế kỷ XVIII) lại Tây Sơn - họ Nguyễn Ánh (cuối XVIII)… Lần đầu tiên Việt Nam được thống nhất trọn dưới triều Nguyễn Ánh - Gia Long...
Những tưởng sau bao nhiêu mất mát, một thời kỳ mới “Vua dân cùng một dạ, chim cá cùng lòng” (Lê Huy Giao - Bài hịch dụ các người trung nghĩa miền Bắc) đã mở ra. Nhưng, chỉ nửa thế kỷ sau... thay vì một trang huy hoàng của dân tộc, của những thế hệ đã mũi tên, hòn đạn, ván thuyền, yên ngựa, dựng lên nhà Nguyễn, thì gần 20 năm sau, tháng 5 năm Tân Tỵ (năm 1821), thế hệ thứ hai của nhà Nguyễn, Nguyễn Phúc Đảm lên ngôi (vua Minh Mạng 1820-1840) cho đặt Sử quán. Mặc dù viết rõ rằng: “Nước phải có sử để làm tin ở đời này mà truyền lại đời sau,… Nước nhà ta Thái Tổ gây lên, liệt thánh nối trị hơn 200 năm... Thế tổ Cao hoàng đế ta thống nhất non sông, mở mang trăm phép... Trẫm mới thân chấp chính, nghĩ việc chí chuộng việc văn, làm việc đều theo sử cũ. Mỗi khi xét việc lại đăm nghĩ đến việc nối dòng nối nghiệp”(3) và, hạ lệnh “cho các quan văn võ trong ngoài từ tứ phẩm trở lên trình bày lý lịch đầy đủ”, chọn lấy “tập đoàn” gồm Tổng tài Thự chưởng Hữu quân Nguyễn Văn Nhân, 3 phó Tổng tài, Thượng thư Trịnh Hoài Đức, Phạm Đăng Hưng làm Phó Tổng tài, 10 Toản tu, 25 Biên tu, 5 Khảo hiệu 12 Thu chưởng, 8 Đằng lục (4).
Và, lấy Quốc sử quán làm nơi soạn sách...
Nhưng, công trình đầu tiên được soạn là “Liệt thánh thực lục”(5), gồm:
Tiền biên “ghi chép về sự nghiệp của 9 chúa Nguyễn bắt đầu từ Nguyễn Hoàng (Thái tổ Gia dụ hoàng đế) vào trấn thủ Thuận Hóa (năm 1558) đến hết đời Nguyễn Phúc Thuần (Duệ Tông Hiếu định hoàng đế - năm 1877).
Chính biên viết về các vua triều Nguyễn bắt đầu (kỷ thứ nhất) về đời Gia Long từ năm 1778 đến năm 1819(6).
Cũng thời gian này, Minh Mạng chuẩn y lời tâu xin của bộ Lễ, “chưa vội đem Việt sử liệt vào chương trình dạy học và thi cử” (7).
Mãi đến năm 1856 - tức là, hơn nửa thế kỷ thống nhất quốc gia, sang thời vua Nguyễn Hồng Nhậm-Tự Đức, sau gần 10 năm ở ngôi mới cho biên soạn Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
Vẫn biết, các vương triều ở Việt Nam là đặt theo dòng họ (Nhà Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê - nước là nước của Vua…Nói như tri thức bác học hóa dân gian truyền tụng “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư”… Nhưng, hẳn chưa bao giờ quan niệm quốc gia, đất nước là của riêng dòng họ liệt thánh lại hóa thành Đại Nam thực lục - tức là cha mẹ, anh em vua trước/trên rồi mới đến, mới thành đất nước, quốc gia, rõ ràng như từ thời Minh Mạng - với tái độc tôn giáo lý Tống Nho, trở đi !
Vua, chúa, triều đình lúc đó thành độc quyền chân lý. Giáo lý Tống Nho từ thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497) trở đi thành vòng kim cô, đã khép - lại - chân - trời của những cánh chim tri thức tự chủ,sáng tạo. Không phải ngẫu nhiên khát vọng tự do của toàn thể dân chúng, vốn được cất lên “bay thẳng cánh muôn trùng tiêu Hán” - như Nguyễn Hữu Cầu tuyên ngôn từ giữa thế kỷ XVIII vẫn tiếp tục được đồng cảm, sẻ chia, khao khát trong những thế hệ trí thức Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát... Và, đội ngũ đó vẫn phải đau lòng trước “điên đảo non sông nhòa lối cũ. Âm thầm đất nước, ngậm bi thương” (Thơ viếng của Nguyễn Văn Siêu) của đất nước cuối thế kỷ XIX.
Cũng không phải ngẫu nhiên khi liên quân Pháp -Tây Ban Nha đã ngang nhiên xâm phạm chủ quyền nổ súng tấn công Đà Nẵng (năm 1858 ) hay khi thực dân Pháp chiếm Nam kỳ (1862-1867) rồi tấn công thành Hà Nội (năm 1873, năm 1882...) phong trào yêu nước, chống Pháp của một tầng lớp nhân dân sôi nổi khắp mọi nơi... nhưng vành “kim cô” ấy vẫn buộc ràng hành động của những Tam Đăng Phạm Văn Nghị, Hoàng Diệu, Tiến sĩ Trần Tấn, Đặng Như Mai, Phạm Thận Duật từng khóc viếng Phó bảng,Thượng thư, Tổng đốc Hà - Ninh Hoàng Diệu (1828-1882) “cô thần một chết tấm trung phơi” trong cuộc chiến bảo vệ thành Hà Nội... đã từng hóa thân đồng cảm, sẻ chia hết mực nhân văn vào, với bao nhiêu nhân vật khác trong đạo hiếu, nghĩa huynh đệ, nghĩa quân thần... trong suốt cuộc đời mình với người khác (Theo thống kê trong Quan Thành văn tập(8) của ông, còn lại ít nhất 110 câu đối, 12 bài thơ, 42 bài văn tế, văn bia, tấu biểu) cũng không thoát khỏi thân phận “cô thần” trong đám triều đình Nguyễn. Và, dẫu có trở thành Chánh Khâm sai - khi đặt bút vào ký với Patonôtre văn bản năm 1884 cũng là điều không tránh khỏi(9).
3. Cùng với sự kiện đưa vua Hàm Nghi lên Sơn phòng Tân Sở - phát hịch Cần Vương - một chương mới của Trí thức Nho học Việt Nam đã mở ra.
Dù vẫn là Cần Vương ( giúp vua, phò vua), nhưng trong bản chất hịch là lời kêu gọi, là lời quy tụ giải phóng, tổ chức, phát huy mọi nguồn lương năng, trí năng của toàn thể mọi người: “Người trí thì hiến mưu, người dũng hiến sức, kẻ giàu bỏ của ra giúp quân nhu, đồng bào, đồng trạch chẳng từ hiểm nguy, có thể làm được gì thì làm nấy. Những ai cứu nạn phò nguy đỡ khó, chống đổ, chớ tiếc lòng, tiếc sức... chuyển loạn thành trị, chuyển nguy thành an, thu lại giang sơn bờ cõi. Trong cơ hội này, phúc của tôn miếu xã tắc là phúc của bàn dân, cùng lo với nhau, cùng hưởng với nhau. Nhược bằng cái tâm sợ chết hơn cái lòng yêu vua, sự nghĩ cho nhà hơn lo cho nước, làm quan thì mượn cớ tránh xa, đi lính thì bỏ ngũ lẩn trốn, người dân không biết trọng nghĩa cứu cấp việc công, kẻ sĩ cam bỏ chỗ sáng đi vào chỗ tối thì dù không phải là sống thừa ở đời, song mặc áo đội mũ mà là muông là thú,...”
Nếu những người áo vải Nam Bộ quen việc cuốc, việc cày, tiếp tục tinh thần Nguyễn Trung Trực, Trương Định, người nông dân Yên Thế - rồi lan cả miền châu thổ sông Hồng theo Hoàng Hoa Thám kháng chiến, thì từ đó trí thức Nho học không còn nữa những đại thần-trí thức yêu nước như ông phải ràng buộc với cái áo, mũ triều đình đến hành động yêu nước, cứu nước cũng phải “xin phép”, “đợi lệnh” của Vua! Trước mắt họ chỉ còn Tổ quốc đang lâm nguy!
Khát vọng “Ta nay quyết kéo trời Nam lại, kẻo để giang sơn đổ lộn nhào”... được thể hiện qua/ thành những:
+ Cử nhân, Án sát Thanh Hóa Phạm Bành (1825-1887) và Đinh Công Tráng dựng căn cứ Ba Đình.
+ Tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn (1830-1889) khởi nghĩa ở Nghệ An.
Hoàng Giáp,Chánh sứ sơn phòng,Tuần phủ Hưng Hóa - Nguyễn Quang Bích (1832-1890) kháng chiến ở Phú Thọ, Yên Bái.
+ Tú Tài Nguyễn Thiện Thuật (1841-1926) lập căn cứ Bãi Sậy.
Tiến sĩ - Ngự sử đô sát viện Phan Đình Phùng (1844-1895), Cao Thắng, lên rừng lập căn cứ Vũ Quang...
+ Phó bảng Nguyễn Duy Hiệu (1847-1887) ở Quảng Nam, Tiến sĩ, Chánh sứ sơn phòng Thanh Hóa Tống Duy Tân (1837-1892) ở miền núi Thanh Hóa. Cử nhân Mai Xuân Thưởng (1860-1887) ở Bình Định.
+ Tú tài võ Tạ Quang Hiện ở Thái Bình, Nam Định…
Để rồi, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thế hệ trí thức Nho học - thế hệ của buổi giao thời không chỉ dấn mình trong hoạt động yêu nước chống thực dân Pháp mà đã chuyển sang tự do nhận thức- hành động- tìm kiếm con đường canh tân cứu nước như thế hệ Lương Văn Can (1854-1927), Phan Bội Châu (1867-1940)(10), Phan Chu Trinh (1872-1926 )…
...
Nhà Nguyễn - không phải không biết nạn ngoại xâm đang đặt ra trước mắt. Từ thế hệ Nguyễn Ánh, đến con, cháu ông (vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) đều nhìn rõ nạn ngoại xâm, và kiên trì chuẩn bị kháng chiến.
Không nghi ngờ gì, các thế hệ vua Nguyễn, từ Nguyễn Ánh - Gia Long, Minh Mạng... nhất là đến đời vua Nguyễn Hồng Nhậm (Tự Đức) sau sự kiện Đà Nẵng, đã càng ngày càng nhìn rõ và thấm hơn âm mưu, tham vọng của thực dân tư bản Pháp nhòm ngó rồi nổ súng để không chỉ tìm kiếm thị trường, mà còn trực tiếp thuộc địa Việt Nam.
Nhưng, điều cơ bản, quan trọng sống còn, là triều Nguyễn với những nền tảng giáo lý Tống Nho buộc ràng, giáo điều.
Đúng là vào thế kỷ XIX, Nho học vẫn còn giữ một số ảnh hưởng tích cực trên một số phương diện nào đó về mặt đạo đức và cách xử thế, cách như chính Phạm Thận Duật viết “miệng muốn nói, hãy nói bằng miệng của người xưa, tay muốn viết, hãy viết bằng tay của người xưa”. Nhưng hệ tư tưởng của đạo Nho không chỉ muôn thủa tỏ bảo thủ và lỗi thời- như một thuộc tính, mà luôn không khả thi trong việc giúp con người nhận thức, lý và giải được những vấn đề luôn luôn vận động và mới mẻ của đất nước, của dân tộc trong bối cảnh phát triển mới của thời đại. Trước họa xâm lược của thực dân Pháp đến từ một nước tư bản phương Tây, từ một nền văn minh công nghiệp với nhiều vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân, với lối đánh chưa từng có trong binh thư phương Đông, vua, tôi triều Nguyễn rất bị động, lúng túng. Trong triều người “chủ chiến”, kẻ “chủ hòa”, người thì “lo chống giữ lâu dài”, người thì “chẳng chiến cũng chẳng hoà” và không ít người chẳng đưa ra được chính kiến gì. Vua Tự Đức đi từ chống đỡ yếu ớt và đến thất bại, đến “chủ hòa” thương lượng và nhượng bộ dần đất đai và chủ quyền cho giặc.
Đây là lần đầu tiên dân tộc Việt Nam phải đương đầu với một đối tượng xâm lược mới, trong một bối cảnh lịch sử mới mà những kinh nghiệm cổ truyền cần được vận dụng trong một phương thức đấu tranh mới.
Nhưng quan trọng hơn cả, quyết định hơn cả là giáo lý Tống Nho đó, cái triều chính Nguyễn đó không có đủ năng lực tin dân, gần dân, trước hết là đội ngũ trí thức của nó. Từ đó, chân trời khoáng đạt của tự do, chắp cánh cho năng lực quyền biến, năng lực phản biện, năng lực sáng tạo để dĩ bất biến để ứng vạn biến đã bị khép lại... khiến nguồn năng lực vô giá mà chỉ có ở lòng dân, sức dân, trí dân không được phát huy, tổ chức và nhân lên để thành THƯỢNG SÁCH GIỮ NƯỚC - như di huấn, chân lý mà Đức - Thánh - Trần đã chắt/ vắt mình truyền lại không chỉ cho một thời.
Chỉ đến phút cuối cùng, khi cái giáo lý, giáo điều độc tộc, xơ cứng ấy sụp đổ, khi phái chủ chiến với các đại thần như Tôn Thất Thuyết, Phạm Thận Duật phò vua Hàm Nghi ra sơn phòng phát động kháng chiến, đã đặt dấu chấm hết cuối cùng cho “khúc bi ai” của trí thức Nho học trong lòng phong kiến độc tôn - đến - giáo - điều Nho học, và mở ra một thời kỳ mới, để họ - những tri thức Nho học yêu nước, thương dân tự do hành động, nhận thức, kiếm tìm gây dựng, giải phóng nguồn năng lượng tiềm tàng trong người yêu nước Việt Nam và tinh thần thời đại vào sự nghiệp cứu nước.
-------------------------
(1) Những lời của Phạm Thận Duật trong bài viết này (in nghiêng) là được dẫn theo bản dịch trong Phạm Thận Duật toàn tập (Phạm Đình Nhân biên soạn và tổ chức bản thảo) Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, H,2000.
(2) Xem Giáp Văn Dương. Tri thức cận thần và tri thức độc lập. TuanVietnam.net. 30.8.2010
(3) Quốc sử quan triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhị kỷ, q IX, Bản dịch, Nxb Giáo dục (in lại) H.2004. tr. 133.
(4) Như trên. Sđd.
(5) Mà sau này khi công bố mang tên Đại Nam thực lục, chính biên và tiền biên.
(6) Phần Tiền biên hoàn thành việc khắc in năm 1844, do Trương Đăng Quế, Vũ Xuân Cần làm Tổng tài. Phần Chính biên, gồm 6 kỷ, trong đó có 4 kỷ hoàn thành trong thế kỷ XIX.