Những góc nhìn Văn hoá

Phù Đổng - Cội nguồn sức mạnh Việt (Kỳ 2)

III. Phù Đổng – cội nguồn sức mạnh Việt
Phát hiện của cố giáo sư Trần Quốc Vượng dường như đã đi tới một khía cạnh hữu thể của lễ hội Phù Đổng, đó là sự phát triển nội tại của triết lý phồn thực, triết lý hội mùa. Nhưng nếu nhìn sâu thêm vào một số chi tiết của lễ hội, hoặc đúng ra là vào những nhân vật rất quan trọng, nếu không nói là quan trọng nhất của lễ hội thì có thể giúp ta lý giải rõ hơn về cội nguồn sức mạnh của Phù Đổng trong tích truyện.

Họ vẫn còn hiện diện lồ lộ trên sân khấu diễn xướng như những Kẻ đó Daseins (Heidegger 1949) – dù tan hội, vẫn không chịu ra về, vẫn nhất thiết đứng đó, để được lý giải cho rõ thân phận và vị thế của họ trên Thần điện Tứ bất tử Việt. Đối với những nhân vật này thì việc lý giải triết lý phồn thực và triết lý hội mùa đã thể hiện khía cạnh sinh sôi nảy nở của vạn vật hầu đáp ứng khát vọng no đủ thịnh vượng của cộng đồng, nhưng vẫn để lại câu hỏi về sức mạnh xung thiên của những Phù Đổng mà lễ hội thực sự chuyển tải. Vì quan niệm Phù Đổng là những Phù Đổng, nên thay vì cách gọi “Người anh hùng làng Dóng” của cố Giáo sư Cao Huy Đỉnh (1969), tôi muốn gọi họ là “Những người anh hùng làng Dóng”. Đối với tôi, họ không phải là một người, mà họ là nhiều người; lễ hội của làng Dóng không phải là lễ hội của một làng, mà là lễ hội của nhiều làng, họ không làm cho riêng họ mà cho cả một dân tộc.

Thật may mắn cho những người quan sát lễ hội Phù Đổng khi chúng ta có được các ghi chép rất chi tiết của cố Giáo sư Nguyễn Văn Huyên. Trước hết ông khiến cho chúng ta phải suy nghĩ cùng ông với cái tên Hội Phù Đổng (Một trận đánh thần kỳ trong truyền thuyết Việt Nam). Trận đánh đó được bài binh bố trận không phải bằng các tướng, mà bằng các ông Hiệu, gồm Hiệu cờ, Hiệu chiêng, Hiệu trống, Hiệu trung quân và Hiệu tiểu cổ; tất cả đều được che hai lọng; riêng ông Hiệu cờ được che bốn lọng, vì tượng trưng cho Thiên tướng trong trận đánh. Ngoài những chiếc lọng, cùng ra trận với các chiến binh là những chiếc mũ có gắn gương và trong tay là những chiếc quạt, các tốp chiến sỹ cầm roi. Một nhân vật không kém quan trọng khác là lá cờ có chữ lệnh được cuốn lại đặt trong bao cùng với 100 tờ giấy bản trắng, một ngàn mảnh giấy màu cắt hình con bướm và 60 mẩu gỗ hương nhỏ; và chiếc bao cờ đó được gọi là “miều”. Tiếc rằng Gáo sư Huyên không cho biết “miều” nghĩa là gì? Nhưng theo nghĩa Hán, và nôm thì “miều” hầu hết liên quan đến vẻ đẹp phụ nữ.
Một dàn nhân vật khác do chính phái nữ thủ vai, đó là các tướng của đội quân xâm lược nhà Ân phương Bắc. Họ là các trinh nữ từ 10 – 13 tuổi, tất cả có 28 cô, trong số đó có hai soái, một chánh và một phó đều phải là hai cô xinh nhất và phải chọn ở giáp Ban - giáp liền anh trong làng Phù Đổng. Các tướng giặc thay vì mặc quân phục thì lại được mặc áo dài màu sắc phong phú, đội mũ thêu hoa; cùng với thanh kiếm và lá cờ đuôi nheo, họ còn được đeo nữ trang quí bằng vàng và bạc. Điều thú vị nhất là ngày chính lễ, 28 tướng giặc được đưa đến tập kết tại Đống Đàm (nơi đàm phán); họ ngồi vắt vẻo trên những chiếc kiệu, dưới tán lọng che, xung quanh là họ hàng, bà con và các bạn nữ tiếp tục trang điểm cho các cô “giặc” đó. Cùng với nhân vật các tướng giặc trinh nữ là một nhân vật quan trọng khác, đó là ba chiếc chiếu trắng có chiếc bát úp trên một tờ giấy trắng được giải thích là: chiếu thì tượng trưng cho đồng bằng, bát là đồi gò, còn giấy trắng là mây. Không xa ba chiếc chiếu là một ban thờ. Đám rước kéo đến cùng con ngựa trắng bằng gỗ, binh khí, cờ quạt. Các ông Hiệu tập trung xung quanh chiếu. Sau 30 phút nghỉ ngơi, vào khoảng 2.30 chiều, trận đánh bắt đầu một cách tượng trưng bằng việc ông Hiệu cờ tiến vào chiếc chiếu đầu ở gần ban thờ. Người ta vén hai tay áo rộng của ông và buộc lại phía sau lưng. Vị thủ chỉ làng Phù Đổng có ông thủ từ giúp mở lá cờ khỏi chiếc bao thêu. Bướm giấy màu và những mẩu gỗ hương xổ tung ra và người ta tranh nhau nhặt để lấy khước. Sau một số động tác phát cờ tượng trưng theo hình chữ lệnh, ông hiệu cờ đi lùi ra khỏi chiếc chiếu và đám đông nhảy bổ vào tranh nhau chiếc chiếu ấy, vì chỉ cần một mẩu chiếu dù nhỏ đến mấy cũng đủ may mắn chữa khỏi bệnh tật, đặc biệt đàn bà vô sinh có thể sinh con nếu cướp được một mảnh chiếu. Sau đó một trận đánh thứ hai cũng diễn ra trên ba chiếc chiếu khác gần Đền Mẫu và sau đó cuộc giành chiếu lại diễn ra. Cuối cùng hai tướng đầu sỏ giặc bị hành hình tượng trưng, còn các tướng khác thì quy hàng, được tha. Hôm sau họ đến dâng lễ vật cúng Thần cùng ăn tiệc với quân ta. “Và thế là thiên hạ thái bình” (Nguyễn Văn Huyên, 1938, in lại năm 1996a: 9-25).
Cố giáo sư Nguyễn Văn Huyên đã có những nhận xét vô cùng tinh tế, chính xác và quan trọng: “Lễ hội này ẩn tàng cả hệ tư tưởng đạo lý và triết học, nhằm thể hiện sự hòa hợp trong gia đình và trong quốc gia. Lễ hội cũng hướng vào một ước mong thực hiện Thiên hạ thái bình bằng con đường “Trung dung”. Đây thực sự là một lễ hội của Hòa bình và An lạc. Lễ hội thật tràn đầy biểu tượng… Đó là: Trung, Hiếu, Thuận, Nghịch. Lập tức đáp lại lời kêu gọi của vua đó là Trung. Cúi mình trước đền thờ Mẹ trước khi ra trận và đốt pháo mừng lúc khải hoàn, Thánh Gióng là người con chí Hiếu. Vạch đúng chữ “lệnh” bằng những động tác hoàn toàn ăn khớp, đó là Thuận, bởi thế mà Thánh đã giành được Hòa bình trọn vẹn. Nhưng khi đã hành động theo tư tưởng Nghịch, trái với trật tự tự nhiên hay sự vật đã được an bài, thì Hòa bình là mong manh, và niềm An lạc sẽ chỉ là nhất thời” (Nguyễn Văn Huyên, 1938, in lại năm 1996a: 26).
Quan sát lại màn diễn xướng dựa trên các ghi chép chi tiết của cố giáo sư Nguyễn Văn Huyên, và những hiểu biết còn hạn hẹp của mình, chúng tôi cho rằng:
i) Lễ hội Phù Đổng là để tái hiện một sự kiện vô cùng trọng đại đã xảy ra từ thời tiền sử trên hai bờ con sông Đuống, hoặc nói một cách rộng hơn là trên hai nửa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ cổ đại - nửa phía Đông Bắc và nửa phía Tây Nam; khi đó dòng sông Đuống là dòng chảy chính của con sông Hồng, mà Thủy Kinh chú gọi là dòng Trường Giang (Lịch Đạo Nguyên 2005: 433), từ đỉnh tam giác châu Việt Trì ra thẳng vùng sông Lục Đầu, nơi hợp lưu của sông Thương, sông Cầu và sông Đuống - những cái tên vang vọng âm hưởng ngôn ngữ Malay trong ngữ hệ Malayo-Polynesian, mà tôi cho rằng một cội nguồn của nó là vùng văn hóa biển Soi Nhụ - Cái Bèo - Hạ Long (Hà Hữu Nga 1999, 2004) liền kề với khu vực các con sông trên.
ii) Lễ hội Phù Đổng chắc chắn có yếu tố hội mùa, phồn thực, nhưng chủ đề chính của lễ hội lại không phải chỉ là hội mùa, và phồn thực. Các nhân vật, đạo cụ, nghi thức, nội dung lễ và hội dường như là để ghi nhớ và tái hiện một sự kiện lịch sử nào đó, liên quan đến ít nhất là hai cộng đồng dân cư lớn đang trong quá trình thử thách, sau những cuộc xung đột, thậm chí là chiến tranh kéo dài, hầu tìm một tiếng nói chung, một quá trình cùng chung sống hòa bình, dù vẫn còn những mâu thuẫn, xung đột nhỏ.
iii) Loại sự kiện này chắc chắn phải có quy mô rộng lớn, đó có thể là một ký ức ghi lại những sự kiện lịch sử đàm phán (thể hiện qua chi tiết Đống Đàm) hợp nhất hai nửa Núi - Biển trong nền văn minh sông Hồng thời Hùng Vương; hoặc hai nửa liên minh bộ tộc để tạo thành một hình thức tiền nhà nước thống nhất thời văn minh Đông Sơn sớm; đó cũng có thể là sự kiện những nhóm người nói tiếng Malay, có nguồn gốc ven biển tiến sâu vào đất của các nhóm người nói tiếng Môn-Khmer cổ vùng trung du và ven đồng bằng Bắc bộ đang dần hình thành sau đợt biển tiến Holocene trung trong vòng 2500 - 3500 năm trước. 
iv) Sự thành công của quá trình đàm phán đi đến thống nhất ấy có sự đóng góp và hy sinh to lớn của những người phụ nữ: họ có thể là những con tin, những món quà trao đổi lấy tài sản, đất đai, và chủ yếu là đổi lấy hòa bình cho hai cộng đồng xung đột. Họ là nhân tố gắn kết, và có thể đã trở thành chiếc cầu nối vững bền nhất cho các hình thức liên minh giữa các bộ lạc, liên bộ lạc, bộ tộc với nhau để dần dần hình thành nên một nhà nước Việt cổ thống nhất. Vì vậy rất có thể sự hy sinh hoặc hiến sinh của họ (hai tướng bị hành hình) so với tỷ lệ còn sống để thắt chặt đoàn kết, xây dựng hòa bình, hòa hợp tộc người của họ có thể đã được đền bù xứng đáng bằng sức mạnh Phù Đổng của dân tộc Việt.
v) Về mặt ngữ âm học lịch sử, hai chữ Phù Đổng vang lên rất thân thuộc đối với người Việt nói riêng và với các cộng đồng người Đông Nam Á, hoặc/và Bách Việt nói chung. Phù Đổng tuy là chữ Hán Việt, nhưng là loại chữ Hán ghi âm tiếng Việt cổ. Phù có thể biến thành, hoặc là kết quả biến đổi của pù, pò, bố, bua, vua, bù, bu, bú, vú, VỢ v.v… Đổng có thể biến thành, hoặc là kết quả biến đổi của đống, trọng, đùng, khổng (lồ), CHỒNG v.v…Rất có thể nguyên nghĩa của Phù - Đổng là sự kết hợp thành VỢ - CHỒNG, một loại thỏa ước, hoặc đúng hơn, đó chính là một loại thể chế xã hội tạo thành sức mạnh vô biên của hai nửa lưỡng hợp, và sau này nó được kết tinh lại trong quan hệ gia đình hạt nhân với một vợ, một chồng.
IV. Phù Đổng và người anh em ở Philippine
Đất nước Philippines là ngôi nhà chung của 91 triệu người sống trên 7100 hòn đảo của quần đảo được chia thành các chính thể barangays gần các dòng sông hoặc các cộng đồng ven sông. Tagalog, cơ sở của ngôn ngữ quốc gia Filipino có từ nguyên “taga-ilog” có nghĩa là người “đến từ sông”, đồng nghĩa với “dumagat” “đến từ biển” hoặc “subanen” “thuộc về sông”. Hiện nay trong một số cộng đồng người nói ngôn ngữ Malayo-Polynesian tại Vùng Hành chính Cordillera, Philippines vẫn còn tồn tại thể chế Pudong, Podong, Bodong, hay Vochong, là loại thể chế cam kết chung sống hòa bình, tạo thành liên minh giữa hai cộng đồng người vốn có những xích mích, mâu thuẫn, xung đột và chiến tranh với nhau. Các hình thức cam kết thì rất phong phú tùy theo thời gian, không gian, nhưng điều đáng chú ý nhất là trong đó có cả những cam kết bằng hôn nhân dưới hình thức các thành viên của hai bộ lạc thù địch trở thành vợ chồng của nhau để đảm bảo sự bền vững của hiệp ước liên minh và hòa bình lâu dài giữa hai bên. Chính hình thức thể chế này đã tạo ra sự lớn mạnh lập tức, bất ngờ của hai cộng đồng vốn trước đó nghi kỵ, thù địch khi họ gắn bó với nhau chỉ bằng một hòa ước, không khác gì sự lớn mạnh của đức Phù Đổng vậy. Tôi tin rằng rất có thể lễ hội Phù Đổng chính là một ký ức lịch sử như vậy của dân tộc ta, và nó đã trở thành một cội nguồn sức mạnh của dân tộc. 
Vùng Hành chính Cordillera chủ yếu là các dãy núi thuộc phía Bắc đảo Luzon, Philippines bao gồm một số tỉnh là Benguet, Abra, Kalinga, Apayao, Sơn Tỉnh, Ifugao, và Baguio. Tổng diện tích của vùng là 18.300 km2. Người dân vùng này chủ yếu là các bộ lạc miền núi, có lối sống truyền thống gắn bó lỏng lẻo với liên bang. Ngôn ngữ chính thức là tiếng Anh và tiếng Tagalog, nhưng ở nhà và trong cộng đồng người dân chỉ sử dụng tiếng mẹ đẻ của mình. Giống như hầu hết quan niệm của người dân Filipinos, người Cordillerans cũng tin rằng họ có nguồn gốc từ lục địa, có thể đâu đó thuộc Nam Trung Quốc?. (Bellwood, P. 1984, 1985; Blust R. 1984, 1985; Coedès G. 1968; Gaillard J.Ch. and Joel P. Mallari 2004; Ma Guerrero Leon. 1961; Solheim II, Wilhelm G. 2006; Spoehr, A. 1973; Vitales T. 2005). Dân số vùng này có khoảng 1.1 triệu người, chiếm 2% dân số Philippine. Người Cordillerans là một nhóm bản địa, có các luật tục riêng và vẫn được duy trì song song với luật pháp quốc gia, nhất là luật máu trả máu liên quan tới việc giết người. Họ coi đất đai là linh thiêng và là nguồn gốc của sự sống, vì vậy không thể có cái gọi là tư hữu về đất đai hoặc bán đất. Đối với họ, mất đất hoặc chuyển nhượng đất cũng giống như mất đi mạng sống của con người vậy, vì họ tin rằng tổ tiên họ đã đổ máu để bảo vệ đất đai của mình khỏi bọn thực dân. Chính vì vậy các bộ lạc ở đây đã xây dựng thành liên minh chống lại các dự án “phát triển” vùng này. Trong đó thể hiện rõ nhất là sức mạnh của người Kalinga và người Bontok khi họ kiên quyết chặn đứng công trình xây đập Chico, khiến cho hàng nghìn người có khả năng phải di chuyển chỗ ở. Sau đó là sức mạnh của người Tinggian là nhân tố chủ chốt khiến cho chính phủ phải đình chỉ hoạt động của Tập đoàn Cellophil Resources Corporation, trong dự án 200.000 ha rừng khai thác gỗ xúc và làm nguyên liệu bột giấy được trao cho người bạn nối khố của tổng thống Marcos là Herminio Disini vào năm 1973. (Alipio A. J. Paul. 2006).
Người bản địa đã sử dụng các cấu trúc và quy trình chính trị xã hội truyền thống của họ, đặc biệt là việc cam kết bằng hòa ước liên minh, mà người Kalinga gọi là Podong/Bodong/Vochong. Đây là một thể chế xã hội được thực hiện giữa các làng để liên minh với nhau nhằm đạt đến các giải pháp hòa bình về kinh tế, xã hội và xung đột bộ lạc. Hòa ước bị phá vỡ vì một số nhân tố khác nhau, chẳng hạn như trộm cắp, giết chóc, sử dụng các nguồn trong các lãnh thổ khác; hòa ước được khôi phục khi đã có những khoản bồi thường thỏa đáng cho các khiếu nại. Trong các lĩnh vực này đều có cơ chế quản lý xung đột chủ yếu do các làng sử dụng. Thể chế hòa ước là một thỏa thuận song phương và đa phương giữa hai hoặc nhiều cộng đồng phát triển rộng khắp tại các cộng đồng bản địa ở Kalinga, Sơn Tỉnh và Abra. Trong phong trào phản kháng các dự án Chico và Cellophil, các hòa ước đa phương truyền thống đã được tổ chức để xây dựng sự đồng thuận liên bộ lạc nhằm thống nhất nhiều làng mạc phải chịu tác động của các siêu dự án này. Từ Đại hội Vochong đầu tiên được tổ chức tại St. Bridgets thuộc thành phố Quezon City vào tháng 5/1975, sau đó các cuộc hội nghị Vochong được triệu tập định kỳ nhằm mở rộng và củng cố phong trào phản đối các siêu dự án xây đập. Sự việc đã lên đến đỉnh điểm khi ngày 24/4/1980, quân đội của nhà độc tài Marcos đã bắn chết thủ lĩnh bộ lạc Kalinga là Macliing Dulag ngay trong cuộc biểu tình phản đối dự án, nhằm mục đích hăm dọa người dân. Từ ngày ấy, cái chết của Macliing đã được tưởng niệm mỗi năm ngày một lớn hơn để ghi nhớ những anh hùng tử vì đạo nghĩa, hy sinh mạng sống của mình vì cuộc tranh đấu của người Cordillera và là dịp để đoàn kết với những người lãnh đạo phong trào của người Cordillera. Kể từ năm 1985, ngày 24 tháng Tư được lấy làm Ngày của người Cordillera và hàng năm các hành động quần chúng của người dân đã được Liên minh Nhân dân Cordillera lãnh đạo (Alipio A. J. Paul. 2006). 
Trong thiên sử thi của người Ifugaos, là những người xây dựng nên hệ thống ruộng bậc thang nổi tiếng thế giới thì thể chế Vochong được coi là phép màu sống còn xuất hiện sau trận chiến giữa các đội quân của Aliguyon vùng Hananga và của Pumbakhayon vùng Daligdigan. Vochong đã khiến cho cả hai bên tham chiến đều không có kẻ bại trận. Aliguyon thách đấu Pumbakhayon bằng cả mạng sống của gia đình chàng và mọi người đều biết về sức mạnh huyền thoại của kẻ thù của chàng là Pumbakhayon, và thật bất ngờ là chàng đã chiến thắng. Về phía mình, Pumbakhayon đã gặp rủi ro khi đánh mất sức mạnh thần thánh của mình trong trận đấu, nhưng bản thân chàng cũng đã chiến thắng và vẫn duy trì được danh tiếng huyền thoại. Chiến thắng kép đó đã diễn ra chính là nhờ có sự trợ giúp của những người phụ nữ, các bà mẹ, những người chị, những người em gái của Aliguyon và Pumbakhayon. Giữa các cuộc chiến, khi những chàng trai của bộ lạc trở về nhà nghỉ lấy sức thì những bà mẹ, các chị em gái lại có dịp khuyên giải họ từ bỏ chém giết, để quay trở về với ruộng vườn, mùa vụ. Cả hai bộ lạc tham chiếm cũng mong muốn mọi thành viên trong bộ lạc được phú bẩm khả năng sinh sản, duy trì nòi giống và giữ mãi sự tồn tại của bộ lạc bằng các nghi lễ hôn nhân giữa hai bên tham chiến bằng thể chế Vochong. Kết cục là Aliguyon cưới Bugan, chị gái của Pumbakhayon; và Pumbakhayon cưới Aginaya, em gái của Aliguyon. Hòa ước được củng cố và đó chính là nguồn cảm hứng của thể chế Podong, Vochong mà cho đến tận bây giờ người Filipinos vẫn còn duy trì. Trong thiên sử thi, hòa ước giữa Aliguyon và Pumbakhayon đưa đến cuộc sống hòa bình lâu dài trong các cộng đồng người Hannanga và Daligdigan ở khu vực miền núi. Họ sống hòa thuận dưới sự lãnh đạo của những người cha huyền thoại, Aliguyon và Pumbakhayon (Santiago, L. Quindoza 2009).
V. Phù Đổng - Thể chế Vochong
Trước hết, để làm rõ thêm vấn đề này, xin được nhắc lại một giả thiết nghiên cứu mà lâu nay chúng tôi đã xây dựng và theo đuổi: Các cộng đồng người tiền sử thuộc các văn hóa Soi Nhụ (khoảng 25.000 - 6.000 năm trước), văn hóa Cái Bèo (khoảng 6.000 - 4.000 năm trước), văn hóa Hạ Long (khoảng 4.000 - 3000 năm trước) trong khu vực vịnh Hạ Long và các vùng ven biển xung quanh là những cộng đồng sống với biển bằng nghề đóng thuyền, bè, đi biển, khai thác biển; họ trao đổi với các cộng đồng săn bắt - hái lượm - làm nông trên bờ và kết nối nền văn minh Việt cổ với các cộng đồng ngoài các đảo xa. Chính họ đã góp phần tạo dựng ngữ hệ Malay-Polynesian, nói cách khác, họ là một trong những tổ tiên của các cộng đồng người Malayo-Polynesian hiện đại; và cũng chính họ đã góp phần xây dựng cơ tầng Malay trong tiếng Việt cổ đại, có nghĩa là tiếng Việt thời Hùng Vương, tiếng Việt của nền văn minh Đông Sơn. Vì vậy đối với tôi, sự tương đồng giữa tiếng Việt cổ đại với các nhóm ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Malayo-Polynesian là điều hoàn toàn bình thường. Vấn đề là ở chỗ phải tìm lại được các yếu tố tương đồng ấy trong các trường hợp cụ thể nào mà thôi.
Như vậy là tiếng Việt thời Hùng Vương, tiếng Việt của nền văn minh Đông Sơn, hay nói cách khác, tiếng Việt trước khi tiếp xúc với văn hóa Hán, về cơ bản là tiếng Việt với hệ thống từ vựng mang đậm các yếu tố Malayo-Polynesian. Và đợt biển tiến khoảng 3500-2500 năm trước là một trong những nguyên nhân di cư ồ ạt của các cộng đồng, bộ lạc ven biển do chịu tác động trực tiếp của đợt biển tiến đó. Chính các di dân này đã góp phần tạo dựng các nền văn hóa Malayo-Polynesian trên hầu hết miền Trung, Tây Nguyên và miền Nam Việt Nam. Và cũng chính họ đã chuyên chở các yếu tố văn hóa và ngôn ngữ thuộc nền văn minh Đông Sơn đến bán đảo Malaysia, quần đảo Indonesia và quần đảo Philippines. Đương nhiên các quá trình đó còn được tiếp tục trong suốt lịch sử quan hệ, tương tác văn hóa hai chiều và nhiều chiều giữa Đông Nam Á lục địa, Đông Á với Đông Nam Á hải đảo và xa hơn nữa. Trong quá trình lịch sử đó không ít các yếu tố văn hóa và ngôn ngữ Việt cổ thuộc nền văn minh Đông Sơn đã được lưu giữ tại các tộc người có gốc gác từ nền văn minh Đông Sơn, hoặc có mối quan hệ sâu đậm với nền văn minh Đông Sơn tại các khu vực Đông Nam Á hải đảo, đặc biệt là tại các vùng núi hẻo lánh, ít chịu tác động của các yếu tố văn hóa ngoại lai trong quá trình ấn Độ hóa và thực dân Tây phương hóa ở Malaysia, Indonesia và Philippines.
Trong bối cảnh đó, có thể giả định rằng Podong/Bodong/Vochong cũng chính là thể chế xây dựng các hòa ước liên minh giữa nhiều cộng đồng người khác nhau thời Hùng Vương - Đông Sơn vốn có nguồn gốc sâu xa từ các văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, Soi Nhụ ở các vùng núi - biển Tây Nam, Tây Bắc, Việt Bắc, Đông Bắc hội tụ về khu vực đồng bằng cổ Phú Thọ - Sơn Tây - Vĩnh Phúc, tạo dựng cơ tầng đầu tiên của nhà nước Hùng Vương ở đó khi biển tiến. Sau đó, cùng với quá trình biển thoái họ cũng đã tiến dần ra biển, khai thác vùng trung tâm đồng bằng Bắc bộ màu mỡ đang hình thành và tạo dựng nền văn minh Đông Sơn rực rỡ bằng chính thể chế Podong/Bodong/Vochong đó. Và cũng chính thể chế này đã góp phần đoàn kết các cộng đồng có nguồn gốc khác nhau thành một nhà nước Việt cổ Hùng Vương trước hết ở vùng đồng bằng sông Hồng, sau đó nó tiếp tục lan tỏa đến các vùng đồng bằng sông Mã, sông Lam về phía Nam và các vùng xa hơn thuộc Lưỡng Quảng (Trung Quốc ngày nay) ở phía Bắc. Thể chế này đánh dấu một sự thay đổi mang tính bước ngoặt trong các xã hội tiền sử du cư chưa có chế độ hôn nhân một vợ một chồng, mà ở đó những đứa con do người mẹ sinh ra và cộng đồng mẫu hệ của mẹ nuôi dưỡng, không chắc chắn cha mình là ai. Các làng định cư và nền sản xuất nông nghiệp lúa nước đã dần dần tạo dựng một nền văn minh Việt cổ với thể chế gia đình ổn định, từ đầu có thể là các gia đình lớn với những người mẹ đẻ và những người bố chung của bộ lạc hoặc cộng đồng đối ngẫu thông qua thể chế Vochong. Sau đó dần dần tách thành các gia đình mẫu hệ một vợ với một hoặc nhiều hơn một chồng; cuối cùng là thể chế gia đình một vợ một chồng.
Về phương diện ngôn ngữ học lịch sử, hoàn toàn có thể dễ dàng chứng minh quá trình biến đổi ngữ âm từ Podong thành Phù Đổng, từ Vochong thành Phù Đổng, và ngược lại từ Phù Đổng thành Podong/Vochong - Vợ chồng. Như vậy thể chế Vochong/Phù Đổng/Vợ chồng lúc đầu vốn là một loại hòa ước, cam kết liên minh xây dựng cuộc sống hòa bình lâu dài giữa hai hoặc nhiều cộng đồng người với nhau bằng nhiều hình thức, trong đó có cả hình thức hôn nhân mang tính tập thể nhằm tạo sự đồng thuận thành một cộng đồng lớn. Có thể đó chính là ý nghĩa ban đầu của câu thành ngữ: Thuận Vợ thuận Chồng bể Đông tát cạn. Theo nghĩa gốc của nó, câu thành ngữ này là để chỉ sức mạnh của thể chế Vochong/Phù Đổng/Vợ chồng từ thời tiền sử, khi các cộng đồng người phân tán, mâu thuẫn, xung đột và thậm chí thù địch đã cam kết bằng thể chế Vochong gắn bó thành một cộng đồng lớn, đồng thuận, đoàn kết, nhờ đó mà có được một nguồn sức mạnh vô song để làm được cả những công việc phi thường như Thánh Gióng - Phù Đổng đã làm.   
Chắc chắn trong thời đại Hùng Vương, thể chế Vochong-Phù Đổng đã được thực hành tại nhiều vùng thuộc châu thổ và trung du Bắc Bộ, và có thể tại các nơi khác nữa. Rất có thể các thể chế đó đã để lại dấu ấn ở những nơi được gọi là dấu chân Ông Đổng ở nhiều địa phương khác nhau: làng Bình Tân (xã Thị Cầu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh), núi Đạm (xã Nam Sơn, huyện Quế Võ), núi Khám (xã Việt Đoàn, huyện Tiên Sơn), bờ giếng làng Bưởi Nồi (xã An Bình, huyện Gia Lương), đỉnh Sóc (Sóc Sơn, Hà Nội); ở Hội Xá gần làng Gióng; ở làng Trung Mầu (Gia Lâm); ở Võ Giàng (ngày nay là Quế - Võ); ở làng Hà Lỗ và Hà Phong (ngày nay là xã Liên Hà, huyện Đông Anh); ở Mai Cương; ở Bưởi Nồi (xã An Bình, Gia Lương). Và cả ở những nơi mà tương truyền cả người lẫn ngựa Gióng đã đến như làng Cáo (Xuân Tảo) hồ Tây; Đông Đồ (Xã Nam Hồng, Đông Anh); làng Sổ (Phủ Lỗ). Hai bên đường Gióng đi từ Đông Anh, Kim Anh đến Đa Phúc, đều in dấu chân ngựa (ao chuôm) những dấu chân ấy càng gần đến Sóc Sơn càng trông rõ, như những cái giếng đào theo hai hàng thẳng và so le nhau mà các cụ già bảo rằng không bao giờ sứt bờ và cạn nước (Cao Huy Đỉnh, 1969).
Bên cạnh những địa phương liên quan đến sự tích Thánh Gióng, dường như thể chế Vochong tiền sử vẫn lưu lại dấu ấn trong tục kết chạ hay còn gọi là kết nước nghĩa ở nhiều nơi thuộc các tỉnh đồng bằng - trung du Bắc bộ. Về thực chất tục kết chạ chính là tạo thành một liên minh gắn bó hai cộng đồng qua nhiều đời. Hơn nữa không gian của tục kết chạ gần như cũng hoàn toàn trùng khít với không gian diễn ra các tích truyện Thánh Gióng, trong đó điển hình là vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Vĩnh Phúc. Ở Bắc Ninh, Bắc Giang lịch sử kết chạ “còn lưu truyền rất rõ nhiều sự kiện cụ thể, thể hiện những tình cảm, ân nghĩa đáng trân trọng. Một số các làng kết chạ tiêu biểu như: làng Cao Thượng và Liên Chung (huyện Tân Yên, Bắc Giang); làng Phú Cốc (xã Quang Minh, Hiệp Hòa, Bắc Giang) với làng Soi Cốc (xã Tân Tiến, huyện Phổ Yên, Thái Nguyên); làng Xuân Biều với Cẩm Hoàng, làng Nga Trại với làng Đông Lâm (Hiệp Hòa). Một trong những tích truyện tiêu biểu cho tục kết chạ là làng Kim Thượng (xã Kim Lũ, Sóc Sơn, Hà Nội) và Trâu Lỗ (xã Mai Đình, Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang). Năm 1592, thôn Kim Thượng mở hội tế thần. Lúc lễ tế chuẩn bị kết thúc, bỗng dưng con trâu trắng làm vật tế lồng lên, vượt qua sông Cầu chạy sang nằm phủ phục trước ngôi đền của làng Trâu Lỗ, nơi thờ Trương Hống và Trương Hát. Hai năm sau đã diễn ra buổi lễ kết nghĩa lịch sử giữa hai làng ở tại Đền thờ Trâu Lỗ. Đặc biệt không kém là câu chuyện kết chạ giữa làng Hương Câu và làng Phúc Linh từ cách đây khoảng 200 năm trước mà nghĩa chạ còn mãi đến nay. Năm 2001, nhân dân Hương Câu tôn tạo lại ngôi đình thì dân anh kết chạ Phúc Linh đã tự nguyện đóng góp công sức, vật liệu, và tiền của vào công việc tôn tạo đó, (Theo Nguyễn Khải Hoàn, 2011).
Các ví dụ trên cho thấy thể chế xây dựng liên minh tiền sử đã tồn tại hàng ngàn năm. Cùng với thời gian thể chế đó đã biến đổi rất nhiều về hình thức, và cả nội dung, có những yếu tố đã được khai thác, phát triển thành chiến lược, thành nghệ thuật liên minh chính trị giữa các cộng đồng, các quốc gia, chẳng hạn như các cuộc hôn nhân hoàng gia Việt - Chăm, Việt - Miên, Việt - Ai Lao, các vua chúa gả con gái cho các tù trưởng miền biên cương, v.v… Tuy nhiên cái còn được lưu giữ chính là ý nghĩa sâu xa của nó: tạo dựng sức mạnh bằng các liên minh hòa bình. Và càng về sau thì phương thức liên minh bằng hôn nhân càng ít hơn, hoặc biến tướng thành các hình thức khó nhận biết hơn. Thay vào đó là những quy định càng ngày càng mang tính lễ giáo. Điều đó thể hiện rõ nhất qua quy định bất thành văn về việc hai cộng đồng kết chạ, hoặc hai nhóm liền anh - liền chị quan họ coi nhau như anh em ruột thịt nên trai gái hai bên không được lấy nhau. Bằng chiến lược mới này, nguồn xung năng khổng lồ của hôn nhân và tình yêu đã được định hướng vào nghĩa vụ, trách nhiệm với nhau giữa các thành viên trong liên minh. Cùng với quá trình đó cội nguồn sức mạnh Phù Đổng cũng bị khuất lấp dưới rất nhiều lớp xiêm áo, và nó chỉ có thể khải lộ thông qua một 
Ngôn trí Tường minh (Sheehan Th. 1988), và đó chính là cái tên Podong - Vochong - Phù Đổng của sân khấu diễn xướng lễ hội Gióng mà ở một thời điểm nào đó nó đã trở thành tên gọi làng Phù Đổng.
Đôi lời cuối bài viết:
Ai đó đã nói rất chính xác rằng sự vật thì nhiều mà ngôn từ lại ít, vì vậy hiện tượng đồng âm khác nghĩa đã tồn tại phổ biến ở mọi ngôn ngữ, đặc biệt là những cổ ngữ, khi số lượng từ vựng còn có hạn mà con người lại phải diễn đạt vô vàn sự vật và trạng huống luôn vận động, sinh sôi, mới mẻ xung quanh mình, liên quan đến mình. Chắc chắn hai chữ Phù Đổng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Vì vậy, bằng bài viết nhỏ này tôi muốn lần tìm, hầu chắp nối một đầu mối rất mong manh của vài mảnh sợi ngôn ngữ cổ còn vương lại đâu đó trong nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesian hòng mon men bước đến bên bờ vực thẳm sâu xa nhất và u mặc nhất của tâm hồn Việt, đó là cái bí ẩn ngàn đời của một trong những hình tượng Tứ bất tử siêu việt nhất của dân tộc - đức Phù Đổng. Tôi mạo muội nghĩ rằng sở dĩ ngài là bất tử vì ngài chính là biểu tượng cho cội nguồn sức mạnh gắn kết những mảnh cộng đồng người rời rạc, thậm chí thù địch lại thành một dân tộc; ngài còn là sợi dây vô hình tạo nên những đôi lứa, những gia đình, những cặp vợ chồng và những đàn con cháu trường tồn của dân tộc này. Ngài chính là một thánh thể kép hòa quyện gia đình và cộng đồng, nhà và nước, tình yêu và hòa bình, niềm hạnh phúc của cuộc sống đời thường và cái bất tử của những công nghiệp vệ quốc hộ dân kỳ vĩ. Ngài vẫn không ngừng sáng tạo, sinh sôi và nảy nở cùng dân tộc Việt, bởi vì ngài chính là biểu tượng dân tộc Việt mà cội nguồn sức mạnh linh thánh của biểu tượng ấy lại được nuôi nấng bằng chính dòng sữa của những bà mẹ Việt suốt đời trồng cà, cấy lúa, dệt vải, nuôi con để có được ngài, để chăm bẵm ngài, để được hóa thân vào ngài mà trở thành Phù Đổng, trở thành Vợ Chồng, trở thành Nước Nhà, trở thành Hòa Bình, trở thành Hòa Hợp, trở thành Sinh Sôi, và trở thành Bất Tử.
 
TÀI LIỆU DẪN
Alipio A. J. Paul. 2006. Natural Resource Conflicts in the Philippine Cordillera Mountains. La Trinidad, Benguet, Philippines. Cordillera Conservation Trust, Philippine.
Bellwood, P. 1984,1985. Ahypothesis for Austronesian origins. In Asian Perspectives No. 26 (1: 107-117).
Blust, Robert 1984-1985. The Austronesian homeland, a linguistic perspective. In Asian Perspectives No. 26(1): 45-67.
Cao Huy Đỉnh 1969. Người anh hùng làng Dóng. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Coedès, George 1968. The Indianized States of Southeasts Asia. Honolulu: East-West Center Press.
Gaillard, Jean-Christophe and Joel P. Mallari 2004. The peopling of the Philippines: A cartographic synthesis. Hukay 6 1-27.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam 1990. Thiền uyển Tập anh (Anh tú Vườn Thiền). Phân viện Nghiên cứu Phật học – Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
Ma Guerrero Leon. 1961. The First Filipino. Manila: National Commission of the Centennial of Jose Rizal.
Hà Hữu Nga 1999. Văn hóa Soi Nhụ - Một cội nguồn của ngữ hệ Malayo-Polynesian. Đề tài khoa học Xây dựng Bảo tàng Sinh thái Vịnh Hạ Long - Ban Quản lý Vịnh Hạ Long năm 1999. Tp Hạ Long, Quảng Ninh.
Hà Hữu Nga 2004. Văn hóa Hạ Long và quá trình hình thành Nhà nước Việt Cổ: Tiếp cận Khảo cổ học Nhận thức. Bảo tàng Quảng Ninh - Đề tài khoa học “Nghiên cứu văn hóa Hạ Long, đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy”, Tp. Hạ Long, Quảng Ninh 2004.
Heidegger 1949. Existence and Being. In Existentialism from Dostoyevsky to Sartre. Edited by Walter Kaufman published in full. Martin Heidegger.
Lê Tắc 1961. An Nam Chí lược, Toàn bộ 19 quyển. Viện Đại học Huế, Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam.
Lịch Đạo Nguyên 2005. Thủy kinh Chú sớ (Lịch Đạo Nguyên chú, Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh sớ; Đoàn Hy Trọng điểm hiệu; Trần Kiều Dịch phúc hiệu). Bản tiếng Việt của Nguyễn Bá Mão Nxb. Thuận Hóa - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
Lý Tế Xuyên 2001. Việt điện U linh. Nxb. Văn học, Hà Nội.
Ngọc Hồ - Nhất Tâm 1992. Việt điện U Linh Tập lục Toàn biên. Nxb. Cửu Long.
Ngô Thời Sỹ 1960. Việt sử tiêu án – Từ Hồng Bàng đến ngoại thuộc nhà Minh. Bản dịch của Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên lạc Văn hóa Á châu. Văn hóa Á châu xuất bản, Sài Gòn. 
Nguyễn Khải Hoàn 2011. Tục kết chạ ở các làng cổ ven sông Cầu: Kim Thượng Trâu Lỗ sắt son một lời thề. http://cema.gov.vn/modules.php?name.
Nguyễn Trãi 1976. Nguyễn Trãi Toàn tập. Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học. In lần thứ hai có sửa chữa và bổ sung. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Văn Huyên 1938, 1996a. Hội Phù Đổng (Một trận đánh thần kỳ trong truyền thuyết Việt Nam-1938). Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.7-26.
Nguyễn Văn Huyên 1938, 1996b. Hát và múa Ải Lao ở hội Phù Đổng (Bắc Ninh). Trong Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, tập II, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.45-68.
Santiago, L. Quindoza 2009. Many Stories, One Journey: Literary translation in the Philippines. University of Hawaii at Manoa, C&E Publishing.
Sheehan, Th.1988. Hermeneia and Apophansis: The early Heidegger on Aristotle. Thomas Sheehan in Franco Volpi et al, Heidegger et Idée de la Phénoménologie, Dordrecht: Kluwer 1988, pp. 67-80.
Solheim II, Wilhelm G. 2006. Origins of the Filipinos and their Languages. Nineth Philippine Linguistics Congress (25 - 27 January 2006). Organized by the Department of Linguistics, University of the Philippines.
Spoehr, Alexander 1973. Zamboanga and Sulu: An Archaeological Approach to Ethnic Diversity. Ethnology Monographs No. 1. Pittsburgh: Department of Anthropology, University of Pittsburgh.
Trần Quốc Vượng 1987. Căn bản triết lý người anh hùng Phù Đổng và hội Gióng. In lại trong Lễ hội Thánh Gióng, Nxb. Văn hóa Thông tin, H.2009, tr.435-438.
Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam 1985. Đại Việt Sử ký Toàn thư. Bản khắc in năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Vũ Quỳnh 1993. Tân đính Lĩnh Nam Chích quái. Bùi Văn Nguyên dịch, chú thích, dẫn nhập. Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Vitales, Taj 2005. Making the Vanua: Technologies and changing seascapes in Batanes. Test Pit Chronicle of the University of the Philippines Archaeological Studies Program. Dec. 2005: 19.
 
 
 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114548616

Hôm nay

2598

Hôm qua

2312

Tuần này

2910

Tháng này

218938

Tháng qua

1114325557

Tất cả

114548616