Tôi xin nói về giới trí thức theo nghĩa truyền thống của từ này trong tiếng Nga, tức là giới trí thức phe nhóm, bị chia tách một cách giả tạo khỏi đời sống chung của dân tộc. Đấy là một thế giới đặc thù, cho đến nay vẫn sống một đời sống khép kín dưới áp lực kép: áp lực khuôn phép ngoại tại, tức là áp lực của chính quyền phản động và áp lực khuôn phép nội tại, tức là sức ỳ của tư duy và tính bảo thủ của cảm xúc; không phải không có lý khi người ta gọi đấy là bọn “trí ngủ” để phân biệt với giới trí thức theo nghĩa rộng nhất, theo nghĩa toàn dân tộc và lịch sử của từ này. Những nhà triết học mà giới trí thức Nga không thèm biết đến, coi đấy là những người thuộc thế giới khác, thế giới thù địch với họ, cũng thuộc về giới trí thức nhưng không phải là “trí ngủ”. Giới trí thức đặc thù của chúng ta có thái độ như thế nào đối với triết học, cái thái độ không hề thay đổi dù có những đổi thay nhanh chóng trong các xu hướng triết học? Đấy là tính bảo thủ và thủ cựu cộng với xu hướng chạy theo cái mới, chạy theo những trào lưu mới nhất của châu Âu, nhưng không bao giờ tiếp thu một cách sâu sắc. Đó là những gì đã có trong thái độ đối với triết học.
Đập vào mắt trước tiên là, đối với triết học, thái độ của giới trí thức cũng thiếu văn hóa như đối với các giá trị tinh thần khác: giá trị tự thân của triết học bị phủ nhận, triết học phải khuất phục các mục tiêu xã hội-duy lợi. Sự thống trị hoàn toàn và độc đoán của các tiêu chí duy lợi-đạo đức, sự thống trị cũng hoàn toàn áp đặt như thế của tình yêu nhân dân, tình yêu giai cấp vô sản, thái độ sùng bái “nhân dân”, sùng bái lợi ích của nhân dân, sự ẩn ức bị đè nén về mặt tinh thần do chế độ chuyên chế gây ra - tất cả những điều này đã dẫn tới kết quả là trình độ văn hóa triết học của chúng ta quá thấp, kiến thức triết học và sự phát triển của triết học ít được phổ biến trong môi trường trí thức của chúng ta. Văn hóa triết học cao chỉ có thể gặp ở một vài cá nhân và chính điều này tách biệt họ với thế giới “trí ngủ”. Nhưng chúng ta không chỉ có ít kiến thức triết học - tai hoạ này có thể sửa chữa được - trong chúng ta còn thống trị một thứ khuynh hướng tâm hồn và một cách thức đánh giá mọi thứ, cho rằng triết học chân chính phải nằm trong vòng bí mật và khó hiểu, còn sáng tạo triết học thì thuộc về thế giới khác, thế giới huyền bí. Có thể có một số người đọc sách triết học, bề ngoài thì họ hiểu, nhưng bên trong họ cũng ít gắn bó với thế giới sáng tạo triết học, cũng giống như ít gắn bó với thế giới của cái đẹp vậy. Lý do không phải là do khiếm khuyết về mặt trí tuệ mà là ở sở nguyện, cái sở nguyện đã tạo ra môi trường trí thức ngoan cố truyền thống, tức là cái môi trường đã có sẵn trong máu thịt của mình thế giới quan dân túy và cách đánh giá mang tính duy lợi, những thứ ấy vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày nay. Trong một thời gian dài người ta vẫn coi sáng tạo triết học là một cái gì đó gần như phi đạo đức, họ coi đấy là sự phản bội nhân dân, phản bội sự nghiệp của nhân dân. Người nào dành quá nhiều tâm trí cho các vấn đề triết học thì bị nghi ngờ là thờ ơ với quyền lợi của nông dân và công nhân. Giới trí thức có thái độ khổ hạnh đối với triết học, họ đòi phải tiết chế để dành sức phục vụ cho chúa trời của mình, tức là nhân dân, dành sức cho cuộc đấu tranh với chế độ độc tài chuyên chế. Cái thái độ khổ hạnh duy lợi-dân túy đối với triết học như thế vẫn có ngay cả trong các trào lưu triết học mà bề ngoài có vẻ như đã vượt qua được tư tưởng dân túy và từ bỏ chủ nghĩa duy lợi thô thiển rồi, vì đấy là thái độ đã ăn sâu bén rễ trong tiềm thức. Cơ sở tâm lý của thái độ như thế đối với triết học và nói chung đối với sự sáng tạo ra các giá trị tinh thần có thể được biểu đạt như sau: trong nhận thức và tình cảm của giới trí thức Nga, mối quan tâm về phân phối và cào bằng luôn luôn nổi trội hơn mối quan tâm về sản xuất và sáng tạo. Điều này đúng cho cả lĩnh vực vật chất cũng như lĩnh vực tinh thần: thái độ của giới trí thức Nga đối với lĩnh vực sáng tạo triết học cũng giống như đối với lĩnh vực sản xuất vật chất. Giới trí thức luôn luôn sẵn sàng chấp nhận hệ tư tưởng trong đó trọng tâm là vấn đề phân phối và bình đẳng, còn sáng tạo thì bị ruồng bỏ, sự tín nhiệm của nó với hệ tư tưởng như thế có thể nói là vô giới hạn. Còn hệ tư tưởng mà trọng tâm là sáng tạo và các giá trị thì bị nó nghi ngờ, nó sẽ dùng ý chí mà cự tuyệt và tìm cách tố cáo. Chính cái thái độ ấy đã giết chết tài năng triết học của N. K. Mikhailovski[1] cũng như đã giết chết tài năng nghệ thuật của Glev Uspenski[2]. Nhiều người đã tự kiềm chế, không dám sáng tạo trong lĩnh vực nghệ thuật và triết học vì cho rằng theo quan điểm lợi ích của phân phối và công bằng thì đấy là việc làm phi đạo đức, là phản bội lại quyền lợi của nhân dân. Trong những năm 70 (1870 - ND), có thời người ta còn coi đọc sách và say mê kiến thức là việc làm chẳng có mấy giá trị, khao khát kiến thức còn bị phê phán về mặt đạo đức nữa. Thời kỳ ngu dân theo lối dân túy đó đã qua lâu rồi, nhưng vi trùng thì vẫn còn nằm trong máu. Còn trong những ngày cách mạng thì người ta lại săn đuổi trí thức, săn đuổi công việc sáng tạo, săn đuổi đời sống tinh thần cao đẹp. Cho đến tận ngày hôm nay trong máu của giới trí thức chúng ta cái bản tính ấy cũng vẫn còn. Những xét đoán về mặt đạo đức như vậy vẫn giữ thế thượng phong dù ngoài mặt họ có dùng ngôn từ gì đi nữa thì cũng thế mà thôi. Cho đến tận bây giờ, thanh niên trí thức của chúng ta vẫn không thể công nhận giá trị tự thân của khoa học, của triết học, của khai minh, của các trường đại học; cho đến tận bây giờ người ta vẫn buộc khoa học phải phục vụ chính trị, phục vụ quyền lợi của các đảng phái, phục vụ các xu hướng và phe nhóm. Những người biện hộ cho kiến thức mang tính vô điều kiện và độc lập, kiến thức như là một khởi nguyên đứng cao hơn những vấn đề thời sự, vẫn bị coi là phản động. Chính Bộ Giáo dục đã góp phần vào việc tạo ra thái độ thiếu tôn trọng như thế đối với thánh địa của tri thức. Ngay cả ở đây chế độ chuyên chế chính trị cũng làm méo mó tâm hồn của lớp trí thức tiên tiến, đến nỗi tinh thần mới khó mà lọt vào ý thức của thanh niên.
Nhưng không thể nói rằng các đề tài và vấn đề triết học là xa lạ với giới trí thức Nga. Thậm chí có thể nói rằng giới trí thức của chúng ta luôn luôn quan tâm tới các vấn đề có đẳng cấp triết học mặc dù không quan tâm tới cách đặt vấn đề của triết học cho những vấn đề ấy: thậm chí những mối quan tâm xã hội mang tính thực tiễn nhất cũng bị họ gán cho tính chất triết lý, họ biến những thứ cụ thể và riêng biệt thành những thứ trừu tượng và phổ quát, các vấn đề về nông dân hay công nhân thì được họ xem là những vấn đề cứu chuộc toàn thế giới, các học thuyết xã hội học được họ tô vẽ gần như có màu sắc thánh thần. Đặc điểm này thể hiện trong văn chính luận của chúng ta, nó dạy người ta ý nghĩa của đời sống vừa không những thiếu cụ thể và thiếu thực tế mà lại còn quá trừu tượng và mang tính triết lý ngay cả khi xem xét các vấn đề kinh tế. Xu hướng học theo phương Tây và xu hướng giữ bản sắc Slavơ không phải đơn thuần là chính luận mà còn là những phương hướng triết học. Belinski[3], một trong những người cha của giới trí thức Nga, chẳng có mấy hiểu biết về triết học và không nắm được phương pháp tư duy triết học, nhưng suốt đời băn khoăn về những vấn đề mang tầm triết học, mang tầm thế giới. Các nhân vật của Tolstoi[4] và Dostoievski[5] cũng bị những vấn đề triết học như thế ám ảnh. Trong những năm 60 (1860 - ND) triết học bị đẩy vào một góc và nằm trong tình trạng suy thoái, Iurkevich[6] đã bị coi khinh, nhưng ít nhất so với Chernyshevski[7] thì ông ta rõ ràng là một nhà triết học thực sự. Nhưng tính chất của niềm đam mê chủ nghĩa duy vật hồi đó, một hình thức triết lý thấp kém nhất và sơ đẳng nhất, dù sao cũng thể hiện được sự quan tâm đối với những vấn đề mang tính triết học và có tầm cỡ thế giới. Lúc đó giới trí thức Nga muốn sống và xác định thái độ của mình đối với những phương diện thực tiễn và thiết thực của đời sống xã hội trên cơ sở kinh bổn của chủ nghĩa duy vật và siêu hình học duy vật chủ nghĩa. Trong những năm 70 giới trí thức lại say mê chủ nghĩa thực chứng và N. K. Mikhailovski, ông trùm tư tưởng của họ, nếu xét về mối quan tâm và tầm tư tưởng thì đúng là một nhà triết học nhưng lại không có trường phái và kiến thức thực sự. Giới trí thức còn hướng đến P. L. Lavrov[8], một người uyên bác và có tầm tư tưởng rộng rãi nhưng lại thiếu tài năng sáng tạo, nhằm tìm cơ sở triết học cho những kỳ vọng cách mạng của họ. Và Lavrov đã đưa ra những lời biện hộ mang tính triết học cho những kỳ vọng của lớp trẻ, nhưng ông thường bắt đầu từ xa, từ việc hình thành khối quần chúng rất ư là mù mờ. Giới trí thức cũng luôn luôn có các nhà triết học trí thức, mang tính phe nhóm của mình và một thứ triết học định hướng, tách biệt hẳn với truyền thống triết học thế giới. Cái thứ triết học thô lậu và hầu như mang tính bè phái đó đã thoả mãn được nhu cầu có một “thế giới quan”, đã trả lời được tất cả các câu hỏi của cuộc sống và liên kết được lý luận với thực tiễn cho tầng lớp thanh niên trí thức nước ta. Nhu cầu có một thế giới quan mang tính triết lý-xã hội nhất quán là nhu cầu chủ yếu của giới trí thức nước ta trong thời trai trẻ và chỉ những người nào có thể rút ra từ lý thuyết những lời biện hộ cho khát vọng giải phóng xã hội, biện hộ cho thiên tính dân chủ và những đòi hỏi về sự công bằng bằng mọi giá thì mới trở thành các ông trùm tư tưởng của họ. Về mặt này, vào những năm 60, Chernyshevski và Pisarev[9], còn vào những năm 70 thì Lavrov và Mikhailovski đã là những nhà “triết học” kinh điển. Đối với sự sáng tạo mang tính triết học cũng như đối với nền văn hóa tinh thần của dân tộc, những cây bút này hầu như chẳng mang lại được gì, nhưng họ đáp ứng được nhu cầu có một thế giới quan và biện giải cho những khát vọng của giới trí thức về mặt lý thuyết; cho đến nay các ông này vẫn còn là đạo sư của giới trí thức và khi còn trẻ người ta vẫn say mê đọc họ. Trong những năm 90, cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa Marx, những quan tâm về mặt trí tuệ của giới trí thức cũng rất được nâng cao, thanh niên bắt đầu Âu hóa, bắt đầu đọc sách khoa học, mẫu người dân túy hoàn toàn nghiêng về cảm tính đã bắt đầu thay đổi dưới ảnh hưởng của luồng tri thức mới. Nhu cầu biện hộ cho những khát vọng mang tính xã hội được đáp ứng bằng chủ nghĩa duy vật lịch sử, còn sau này thì bằng học thuyết của phái Kant mới, một học thuyết không được truyền bá rộng rãi vì quá phức tạp về mặt triết học. Beltov-Plekhanov[10] trở thành “triết gia của thời đại”, đẩy được Mikhailovski ra khỏi trái tim của tuổi trẻ. Sau này, trên sân khấu lại xuất hiện hai ông là Avenarius[11] và Mach[12], những người được tuyên bố là cứu tinh về mặt triết học của giai cấp vô sản, còn các ông Bogdanov[13] và Lunacharski[14] thì biến thành “triết gia” của tầng lớp trí thức dân chủ-xã hội. Mặt khác, lại xuất hiện thêm các xu hướng duy tâm và thần bí, nhưng đấy là những xu hướng hoàn toàn khác trong nền văn hóa Nga. Chiến thắng của chủ nghĩa Marx trước phong trào dân túy không tạo ra một cuộc khủng hoảng sâu sắc trong bản chất giới trí thức Nga, nó vẫn là cựu giáo và dân túy như cũ, chỉ khoác lên mình chủ nghĩa Marx theo kiểu châu Âu mà thôi. Nó phủ nhận bản thân mình trong lý thuyết dân chủ-xã hội, nhưng chính lý thuyết này cũng chỉ là hệ tư tưởng của một phe nhóm trí thức. Còn thái độ đối với triết học thì vẫn như xưa, nếu không kể trào lưu phê phán trong chủ nghĩa Marx, trào lưu này sau đó đã chuyển sang lập trường duy tâm, nhưng cũng không được trí thức hâm mộ.
Quan tâm của đa phần trí thức đối với triết học thường chỉ dừng lại ở nhu cầu biện hộ về mặt triết học cho những tâm thế và khát vọng mang tính xã hội của nó, hoạt động tư duy triết học không thể làm cho những tâm thế và khát vọng đó bị lay chuyển, chúng bất di bất dịch như những tín điều. Trí thức không quan tâm đến vấn đề, thí dụ như lý thuyết nhận thức của Mach (ông này chứ không phải Marx) là đúng hay sai, nó chỉ cần biết lý thuyết này có lợi cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa hay không, nó có phục vụ cho quyền lợi và hạnh phúc của giai cấp vô sản hay không; nó không cần biết liệu siêu hình học có khả dĩ hay không và chân lý của siêu hình học có tồn tại hay không, nó chỉ quan tâm đến việc liệu siêu hình học có làm thiệt hại cho quyền lợi của nhân dân hay không, có làm xao lãng cuộc đấu tranh với chế độ chuyên chế và phục vụ giai cấp vô sản hay không mà thôi. Trí thức sẵn sàng chấp nhận mọi triết lý, với điều kiện là nó biện hộ được cho các lý tưởng xã hội của họ và gạt bỏ ngay mọi triết lý, dù là triết lý sâu sắc nhất và đúng đắn nhất, nếu họ ngờ rằng triết lý đó không có lợi hoặc đơn giản là có thái độ phê phán đối với những lý tưởng và tâm thế truyền thống ấy. Mối thâm thù đối với các xu hướng duy tâm và tôn giáo-thần bí, việc coi thường năng khiếu triết học đầy sáng tạo và độc đáo của Nga có nguồn gốc từ cái tâm lý mang tính “Thiên Chúa giáo” này. Chủ nghĩa duy lợi xã hội trong việc đánh giá mọi việc, sự tôn sùng “nhân dân” - khi thì nông dân, lúc lại là vô sản - tất cả những thứ này vẫn là tín điều đạo đức của phần lớn giới trí thức. Giới trí thức thậm chí bắt đầu đọc cả Kant[15] chỉ vì chủ nghĩa Marx phê phán hứa sẽ dùng Kant để đặt cơ sở cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Sau đó họ lao vào cả công trình của Avenarius, vì triết học trừu tượng nhất và “tinh khiết nhất” của Avenarius bỗng đột nhiên được coi là triết học của những người dân chủ-xã hội “bolshevik”, dù ông Avenarius không biết và không có lỗi gì trong chuyện này.
Tất cả sự thiếu văn hóa của chúng ta, sự thiếu phân tầng đầy thô lậu, nhận thức yếu kém về giá trị tuyệt đối của chân lý và sai lầm trong phán đoán mang tính đạo đức dĩ nhiên đã ảnh hưởng tới thái độ đặc biệt này đối với triết học. Toàn bộ lịch sử của nước Nga cho thấy người ta ít coi trọng những quan tâm tự lập mang tính tư biện. Nhưng ở đây có cả ảnh hưởng của những tư chất tích cực - lòng khát khao có một thế giới quan thống nhất, trong đó lý thuyết hòa nhập vào cuộc sống, khát khao đức tin, đấy là những đặc điểm tích cực và có giá trị. Không phải không có cơ sở để giới trí thức có thái độ tiêu cực và nghi ngờ đối với tính hàn lâm trừu tượng, đối với việc chia cắt chân lý sống động thành từng mảnh, và trong yêu sách của trí thức đòi hỏi một thái độ toàn vẹn đối với thế giới và cuộc sống, ta có thể nhận ra những nét đặc trưng cho tính tôn giáo chưa-có-ý-thức.
Cần phải phân biệt rõ điều hơn lẽ thiệt (trong nguyên văn: “tay phải” và “tay trái”) trong tâm lý truyền thống của giới trí thức. Không nên lý tưởng hóa sự thiếu quan tâm đối với các vấn đề triết lý trừu tượng ấy, trình độ văn hóa triết học thấp kém ấy, sự thiếu vắng những kiến thức triết học nghiêm chỉnh và sự thiếu vắng khả năng tư duy triết học nghiêm túc. Cũng không nên lý tưởng hóa cái xu hướng gần như cuồng si ấy trong việc đánh giá các học thuyết triết học và chân lý triết học theo các tiêu chuẩn của chính trị và duy lợi, cái sự thiếu khả năng ấy trong việc xem xét các hiện tượng sáng tạo triết học và văn hóa theo thực chất, từ quan điểm giá trị tuyệt đối của chúng. Trong thời khắc này của lịch sử, giới trí thức không cần tự ca ngợi mà cần phải tự phê bình. Chỉ có thông qua sám hối và tự vạch trần mình chúng ta mới có thể đi đến nhận thức mới. Trong thời kỳ phản động hồi những năm 80 người ta đã tự ca ngợivề những phẩm hạnh mang tính Nga chân chính đầy bảo thủ của người Nga và Vl. Soloviev[16] đã làm được một việc quan trọng là vạch trần bộ phận ấy của xã hội, là kêu gọi người ta phải tự phê bình và sám hối, phải vạch trần những căn bệnh của chúng ta. Sau đó lại đến thời kỳ người ta bắt đầu nói đến những phẩm hạnh mang tính cấp tiến, cũng là những phẩm hạnh mang tính Nga chân chính. Trong thời kỳ này cần phải kêu gọi bộ phận khác của xã hội thực hiện việc tự phê bình, sám hối và vạch trần các căn bệnh. Không thể nào tự hoàn thiện bản thân được nếu cứ tiếp tục tự say mê những tính chất vĩ đại của chính mình, những phẩm chất tốt lớn lao thực sự cũng sẽ bị lu mờ đi trong niềm say mê đó.
Giới trí thức Nga, do hoàn cảnh lịch sử của nó, đã gặp phải nỗi bất hạnh sau: tình yêu công bằng mang tính cào bằng, tình yêu điều thiện cho xã hội, tình yêu hạnh phúc cho nhân dân đã làm tê liệt tình yêu chân lý, gần như giết chết sự quan tâm đến chân lý. Thế nhưng triết học lại là trường học dạy tình yêu chân lý, trên hết là chân lý. Trí thức không thể có thái độ vô tư đối với triết học vì nó vốn có thái độ vụ lợi đối với chính bản thân chân lý, nó đòi hỏi chân lý phải trở thành công cụ của cách mạng xã hội, của hạnh phúc cho nhân dân, hạnh phúc cho con người. Nó chạy theo cám dỗ của Đại pháp quan tôn giáo[17], là người đòi từ bỏ chân lý nhân danh hạnh phúc của con người. Phán đoán mang tính đạo đức chủ yếu của giới trí thức có thể được thu gọn trong công thức sau: thây kệ chân lý, nếu nó chết mà nhân dân được sống tốt hơn, hạnh phúc hơn thì cứ để cho nó chết, đả đảo chân lý nếu như nó cản trở lời hiệu triệu thiêng liêng “đả đảo chế độ chuyên chế”. Hóa ra lòng nhân ái được định hướng sai đã giết chết tình yêu Thượng đế, ấy là vì tình yêu chân lý, cũng như tình yêu cái đẹp, tình yêu đối với bất kỳ giá trị tuyệt đối nào, cũng đều là biểu hiện của tình yêu đối với Thượng đế cả. Lòng nhân ái đó là lầm lạc vì nó không dựa trên sự tôn trọng thực sự con người, sự tôn trọng cái con người vốn bình đẳng và thân thuộc theo một người Cha duy nhất; một mặt lòng nhân ái này là lòng trắc ẩn và thương hại đối với con người từ “nhân dân”, mặt khác, nó lại biến thành sự sùng bái con người và sùng bái nhân dân. Thế nhưng tình yêu chân chính đối với con người là tình yêu không chống lại chân lý và Chúa mà là tình yêu trong chân lý và trong Chúa, không phải là lòng thương hại, lòng thương hại phủ nhận nhân phẩm của con người, mà là sự công nhận hình ảnh của Thiên Chúa trong mỗi con người. Nhân danh lòng yêu con người và yêu nhân dân một cách lầm lạc đó mà ở nước ta đã hình thành thái độ ngờ vực và theo dõi đối với các trào lưu và những tìm tòi mang tính triết học. Thực chất là chẳng có ai đi vào lĩnh vực triết học, những người dân túy thì bị tình yêu sai lầm đối với nông dân, còn những ngưới mác-xít thì bị tình yêu sai lầm đối với giai cấp vô sản cấm đoán đi vào. Nhưng thái độ như thế với nông dân và vô sản chính là sự thiếu tôn trọng đối với ý nghĩa tuyệt đối của con người vì ý nghĩa tuyệt đối ấy nằm ở Thượng đế chứ không phải ở người, ở chân lý chứ không phải ở quyền lợi. Avenarius hóa ra là tốt hơn Kant và Hegel không phải vì người ta nhìn thấy chân lý trong triết học của Avenarius mà vì người ta tưởng rằng Avenarius có lợi hơn cho phong trào xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là quyền lợi được đặt cao hơn chân lý, cái thuộc về người được đặt cao hơn cái thuộc về Chúa. Bác bỏ các lý thuyết triết học chỉ vì chúng không có lợi cho phong trào dân túy hay phong trào dân chủ-xã hội cũng tức là coi khinh chân lý. Nhà triết học bị nghi là phản động (cái gì ở nước ta mà không có thể gọi là “phản động”!) thì sẽ chẳng được ai nghe vì có ai quan tâm đến triết học và chân lý đâu. Những lời bịa tạc mang tính phe nhóm của ông Bogdanov luôn được đánh giá cao hơn là Lopatin[18], nhà triết học độc đáo và phi thường của chúng ta. Triết học của Lopatin đòi hỏi phải tư duy nghiêm túc và nó không đưa ra bất kỳ khẩu hiệu mang tính cương lĩnh nào, còn triết học của Bogdanov thì chỉ cần cảm xúc và nó có thể được gói gọn trong một cuốn sách giá năm xu. Trong giới trí thức Nga, chủ nghĩa duy lý của nhận thức luôn luôn kết hợp với tính đa cảm và sự bạc nhược của đời sống trí tuệ có giá trị tự thân.
Đối với triết học cũng như các lĩnh vực khác của đời sống, thái độ mị dân vẫn giữ vai trò chủ đạo; những cuộc tranh luận giữa các xu hướng triết học trong giới trí thức thường mang tính chất mị dân và kèm theo những cái nhìn ngang liếc dọc rất vô liêm sỉ để xem ai thích cái gì, cái gì thì phù hợp với bản năng nào. Thói mị dân đó đã làm bại hoại đạo đức tinh thần của giới trí thức và tạo ra một bầu không khí rất nặng nề. Thái độ hèn nhát về mặt đạo đức ngày càng phát triển, tình yêu đối với chân lý và sự táo bạo trong tư duy càng ngày càng bị tàn lụi. Niềm khao khát sự công bằng trên cõi thế vốn có sẵn trong tâm hồn giới trí thức Nga, về căn bản là một niềm khao khát thiêng liêng, đã bị xuyên tạc. Lòng nhiệt tình bị thoái hóa thành bệnh cuồng-si-một-đối-tượng-duy-nhất (monomania). Những giải thích các hệ tư tưởng và các lý thuyết triết học khác nhau theo quan điểm “giai cấp” của những người mác-xít đã trở thành một thứ tư tưởng mang tính ám ảnh đầy bệnh hoạn. Phần lớn “cánh tả” của chúng ta bị nhiễm căn bệnh cuồng-si-một-đối-tượng-duy-nhất này. Chia triết học ra thành “vô sản” và “tư sản”, “cánh tả” và “cánh hữu”, khẳng định rằng có hai chân lý, chân lý có lợi và chân lý có hại - tất cả đều là những dấu hiệu chứng tỏ sự suy đồi về mặt trí tuệ, đạo đức và cả văn hóa chung nữa. Con đường ấy dẫn đến sự tha hóa nhận thức toàn diện mang tính bắt buộc chung cho tất cả mọi người, vốn là thứ nhận thức gắn liền với nhân phẩm và sự phát triển văn hóa của nhân loại.
Lịch sử nước Nga đã tạo ra giới trí thức với trạng thái tinh thần đối nghịch với tính khách quan và tính toàn diện, trong đó không thể có tình yêu thật sự đối với chân lý và giá trị mang tính khách quan và có tầm cỡ thế giới. Giới trí thức Nga có thái độ nghi ngờ đối với những tư tưởng khách quan và các tiêu chuẩn chung cho cả loài người vì họ cho rằng các tư tưởng và tiêu chuẩn như thế sẽ cản trở cuộc đấu tranh với chế độ chuyên chế và sự nghiệp phục vụ “nhân dân”; hạnh phúc của “nhân dân” được đặt cao hơn chân lý và cao hơn điều thiện mang tầm thế giới. Cái tính chất vô cùng nguy hại này của giới trí thức Nga do lịch sử đáng buồn của nó tạo ra, chính quyền trong lịch sử của chúng ta phải chịu trách nhiệm về việc này. Cái chính quyền ấy đã làm tàn phế đời sống Nga và bằng một cách thức vô cùng nguy hại, đã đẩy giới trí thức Nga tới chỗ chỉ làm mỗi một việc là đấu tranh chống lại ách áp bức về chính trị và kinh tế. Cái tính chất này đã khiến cho trong nhận thức của trí thức Nga, các học thuyết triết học châu Âu bị tiếp nhận dưới dạng méo mó, bị điều chỉnh cho phù hợp với những mối quan tâm mang tính đặc thù của giới trí thức, còn những hiện tượng quan trọng nhất của tư duy triết học thì bị bỏ qua hoàn toàn. Chủ nghĩa thực chứng khoa học, chủ nghĩa duy vật kinh tế, chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, phái Kant mới và học thuyết của Nietzsche[19], tất cả đều bị xuyên tạc và sửa đổi cho phù hợp với điều kiện ở trong nước.
Chủ nghĩa thực chứng khoa học được giới trí thức Nga tiếp thu một cách hoàn toàn sai lạc, hoàn toàn không khoa học và nó đã đóng một vai trò khác hẳn với vai trò của nó ở Tây Âu. Giới trí thức của chúng ta có thái độ kính trọng, thậm chí sùng bái như thần tượng, đối với “khoa học” và “tính khoa học”, nhưng khoa học lại được hiểu là tín điều duy vật đặc biệt, còn tính khoa học thì là niềm tin đặc biệt, và bao giờ cũng là tín điều và niềm tin nhằm vạch trần những điều xấu xa của chế độ chuyên chế, sự giả trá của chế độ tư bản, còn niềm tin thì sẽ cứu chuộc nhân dân hay giai cấp vô sản. Chủ nghĩa thực chứng khoa học, cũng như tất cả những gì của phương Tây, đã được tiếp thu dưới dạng cực đoan nhất và không những đã biến thành một môn siêu hình học thô lậu mà còn thành một tôn giáo đặc biệt, thay thế cho tất cả các tôn giáo trước đây nữa. Bản thân khoa học và tinh thần khoa học còn chưa trở thành thông dụng ở nước ta, chưa được đông đảo trí thức tiếp thu, số người hấp thụ được chưa đáng bao nhiêu. Các nhà khoa học chưa bao giờ được tôn trọng một cách đặc biệt và chẳng được mấy người biết đến, còn nếu họ lại là những người bàng quan về mặt chính trị thì khoa học của họ cũng bị coi là không phải khoa học chân chính. Giới thanh niên trí thức của chúng ta bắt đầu học khoa học theo Pisarev, theo Mikhailovski và Beltov, tức là theo những “khoa học gia” và “tư tưởng gia” ấm ớ của nhà. Còn những nhà khoa học thực sự thì họ chưa từng được nghe nói tới bao giờ. Bản thân tinh thần của chủ nghĩa thực chứng khoa học chẳng tiến bộ, cũng chẳng phản động, nó chỉ đơn giản quan tâm đến việc khảo sát chân lý mà thôi. Còn chúng ta thì bao giờ cũng coi tinh thần khoa học là sự tiến bộ về chính trị và cấp tiến về xã hội. Bản thân tinh thần của chủ nghĩa thực chứng khoa học không loại trừ bất kỳ môn siêu hình học hay niềm tin tôn giáo nào, nhưng nó cũng không khẳng định bất kỳ siêu hình học hay niềm tin tôn giáo nào[20]. Còn chúng ta thì lại luôn coi chủ nghĩa thực chứng khoa học là sự phủ nhận một cách triệt để bất kỳ môn siêu hình học nào cũng như bất kỳ niềm tin tôn giáo nào, hay nói đúng hơn, ở nước ta chủ nghĩa thực chứng khoa học được đồng nhất với siêu hình học duy vật chủ nghĩa và niềm tin vào cách mạng xã hội. Không một nhà thần bí nào, không một tín đồ nào có thể phủ nhận được chủ nghĩa thực chứng khoa học và khoa học. Không hề có mâu thuẫn đối kháng nào giữa tôn giáo thần bí nhất và khoa học mang tính thực chứng nhất vì phạm vi thẩm quyền hiểu biết của chúng là hoàn toàn khác nhau. Đúng là nhận thức siêu hình học và tôn giáo phủ nhận tính độc nhất của khoa học và vị trí tối thượng của nhận thức khoa học trong đời sống tinh thần, nhưng việc giới hạn lĩnh vực như vậy chỉ có lợi cho khoa học mà thôi. Những thành tố mang tính khoa học và khách quan của chủ nghĩa thực chứng đã không được chúng ta tiếp thu một cách đúng đắn, nhưng những thành tố có thể biến chủ nghĩa thực chứng thành đức tin, thành thế giới quan hoàn hảo thì lại được tiếp nhận một cách nồng nhiệt. Đối với giới trí thức Nga, chủ nghĩa thực chứng hấp dẫn không phải bởi tính khách quan mà chính là ở tính chủ quan, thần thánh hóa loài người của nó. Trong những năm 70, chủ nghĩa thực chứng đã bị Lavrov và Mikhailovski biến thành môn “xã hội học mang tính chủ quan”, môn này sau đó đã trở thành triết học phe nhóm đầy thô lậu của giới trí thức Nga. Vl. Soloviev đã có một nhận xét hóm hỉnh rằng trí thức Nga luôn tư duy theo lối tam đoạn luận kỳ quặc: người từ khỉ mà ra cho nên chúng ta phải yêu thương nhau. Chủ nghĩa thực chứng khoa học cũng được giới trí thức Nga tiếp thu theo đúng tinh thần của cái tam đoạn luận đó. Chủ nghĩa thực chứng khoa học chỉ là phương tiện để thiết lập vương quốc của công bằng xã hội và để tiêu diệt hoàn toàn những tư tưởng siêu hình và tôn giáo nào mà vương quốc của cái ác dựa vào theo quan niệm giáo điều của giới trí thức. Chicherin[21] là người khoa học hơn và theo nghĩa khoa học-khách quan thì còn là người thực chứng hơn là Mikhailovski, nhưng điều đó cũng không ngăn cản ông trở thành một người siêu hình-duy tâm, thậm chí là một tín đồ Thiên Chúa giáo nữa. Nhưng khoa học của Chicherin về mặt cảm xúc thì xa lạ và khó chịu với giới trí thức, còn khoa học của Mikhailovski thì gần gũi và khả ái. Cuối cùng, cần phải công nhận rằng khoa học “tư sản” chính là khoa học mang tính khách quan, khoa học chân chính, còn cái khoa học “chủ quan” của những người dân túy và khoa học mang tính “giai cấp” của những người mác-xít của chúng ta thì lại có nhiều điểm chung với một hình thức đặc biệt của đức tin hơn là với khoa học. Điều này đã được toàn bộ lịch sử các hệ tư tưởng của giới trí thức xác nhận: chủ nghĩa duy vật hồi những năm 60, xã hội học chủ quan hồi những năm 70 và chủ nghĩa duy vật kinh tế trên miếng đất Nga.
Chủ nghĩa duy vật kinh tế cũng bị tiếp thu một cách sai lạc và bị xuyên tạc trên miếng đất Nga, giống y như chủ nghĩa thực chứng khoa học nói chung đã từng bị. Chủ nghĩa duy vật kinh tế là học thuyết chủ yếu mang tính khách quan, nó đặt cái khởi nguyên mang tính khách quan của sản xuất chứ không phải khởi nguyên chủ quan của phân phối vào trung tâm của đời sống xã hội. Học thuyết này cho thấy bản chất của lịch sử loài người nằm ở trong quá trình sáng tạo để chiến thắng tự nhiên, nằm ở trong xây dựng kinh tế và tổ chức lực lượng sản xuất. Toàn bộ chế độ xã hội cùng với những hình thức phân phối công bằng đặc trưng của nó, tinh thần mang tính chủ quan của các nhóm xã hội khác nhau phải phục tùng cái khởi nguyên sản xuất mang tính khách quan này. Cũng cần phải nói rằng chủ nghĩa Marx, trong phương diện khoa học-khách quan của nó, từng có mầm mống lành mạnh, được một người khoa học nhất và có văn hóa nhất trong số những người mác-xít của chúng ta là P. B. Struve[22] khẳng định và phát triển. Nhưng nói chung, cả chủ nghĩa duy vật kinh tế lẫn chủ nghĩa Marx đều bị hiểu sai và tiếp thu theo kiểu “chủ quan” và được cải biến để thích nghi với tâm lý truyền thống của giới trí thức. Chủ nghĩa duy vật kinh tế đã mất đi tính chất khách quan trên miếng đất Nga, yếu tố sản xuất - tạo dựng bị đẩy ra phía sau, phương diện giai cấp-chủ quan của phong trào dân chủ-xã hội thì nhảy lên mặt trước. Chủ nghĩa Marx thoái hóa theo lối dân túy, còn chủ nghĩa duy vật kinh tế thì biến thành một hình thức mới của “xã hội học chủ quan”. Những người mác-xít Nga tràn ngập trong tình yêu đối với quyền bình đẳng và niềm tin vào chiến thắng không xa của chủ nghĩa xã hội, có khi còn giành chiến thắng đó trước cả phương Tây nữa. Yếu tố khách quan của chân lý đã chìm hẳn trong yếu tố chủ quan, chìm trong quan điểm “giai cấp” và tâm lý giai cấp. Ở Nga, triết lý của chủ nghĩa duy vật kinh tế đã hoàn toàn biến thành “chủ nghĩa chủ quan mang tính giai cấp”, thậm chí trở thành khoa thần bí mang tính giai cấp vô sản nữa. Trong ánh sáng của một triết học như thế, nhận thức không thể hướng về các điều kiện phát triển khách quan của nước Nga mà tất yếu bị nuốt gọn bởi ước muốn giành cho bằng được cái tối đa trừu tượng cho giai cấp vô sản, cái tối đa theo quan điểm của một nhúm trí thức không hề muốn biết tới bất kỳ chân lý khách quan nào. Điều kiện cuộc sống Nga khiến cho triết học mang tính khách quan về xã hội không thể nở hoa kết trái được. Triết học và khoa học bị hiểu theo lối trí thức-chủ quan.
Phái Kant mới bị xuyên tạc ít hơn vì ít được ưa chuộng và ít phổ biến hơn. Nhưng vẫn có một giai đoạn, khi chúng ta đã rất muốn sử dụng phái Kant mới nhằm canh tân một cách có phê phán chủ nghĩa Marx và đặt lại nền móng cho chủ nghĩa xã hội. Ngay cả một người có tinh thần khoa học và khách quan như Struve mà trong tác phẩm đầu tay cũng đã phạm sai lầm khi giải thích lý thuyết về nhận thức của Riehl[23] theo lối quá thiên về xã hội học, nhận thức luận của Riehl được giải thích theo lối có lợi cho chủ nghĩa duy vật kinh tế. Còn Simmel[24] thì có thời được coi gần như là một người mác-xít, mặc dù ông có rất ít điểm chung với chủ nghĩa Marx. Sau này, tinh thần của phái Kant mới và phái Fichte[25] mới đã trở thành công cụ cho chúng ta thoát khỏi chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa thực chứng và thành phương tiện thể hiện những tâm thế đầy lý tưởng đã chín muồi. Trong triết học Nga không có thông lệ sáng tạo theo trường phái Kant mới, triết học thực sự của Nga đi theo một hướng khác, ta sẽ thảo luận vấn đề này sau. Công bằng mà nói việc quan tâm đến Kant và Fichte, đến chủ nghĩa duy tâm Đức đã nâng cao được trình độ văn hóa-triết học và là cầu nối đến những hình thức cao hơn của nhận thức triết học.
Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán bị xuyên tạc nặng hơn nhiều. Hình thức tinh tế nhất và trừu tượng nhất này của chủ nghĩa thực chứng, lớn lên trong truyền thống của chủ nghĩa phê phán Đức, được tiếp thu gần như là một triết lý mới của giai cấp vô sản, các ông Bogdanov, Lunacharski và những người khác công nhận là có thể sử dụng nó như đồ vật trong nhà, như đồ vật thuộc sở hữu của chính mình vậy. Nhận thức luận của Avenarius thật tổng quát, mang tính hình thức và trừu tượng đến mức chẳng hề dự kiến trước bất cứ vấn đề siêu hình học nào. Avenarius phải dùng đến biểu trưng bằng chữ cái để không dây dưa với bất cứ luận điểm nào của bản thể luận. Avenarius rất sợ bất cứ tàn dư nào của chủ nghĩa duy vật và thuyết duy linh cùng mọi thứ chủ nghĩa khác. Ông không chấp nhận cả chủ nghĩa duy vật sinh học cũng như bất kỳ hình thức bản thể luận nào. Chủ nghĩa sinh vật biểu kiến của Avenarius không thể gây ra bất kỳ sự ngộ nhận nào; đây là chủ nghĩa sinh vật hoàn toàn mang tính hình thức và tổng quát nhất, khiến cho bất cứ “nhà thần bí” nào cũng có thể chấp nhận được. Ông Kornelius[26], một trong những người theo phái kinh nghiệm phê phán thông minh nhất, công nhận rằng có thể đưa nó vào loại thần học. Nhưng giới trí thức mác-xít của chúng ta lại tiếp thu và giải thích chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của Avenarius thuần túy theo tinh thần của chủ nghĩa duy vật sinh học vì hóa ra làm thế là có lợi cho việc biện hộ cách hiểu duy vật về lịch sử. Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán không những đã trở thành triết lý của những người dân chủ-xã hội mà còn của cả những người dân chủ-xã hội “bolshevik” nữa. Tội nghiệp cho Avenarius, ông không thể nào ngờ được rằng tên ông, một cái tên vô tội và xa lạ với cuộc vật lộn đời thường, lại dính líu vào những cuộc tranh cãi của những người trí thức “bolshevik” và “menshevik” ở nước Nga. Cuốn Phê bình kinh nghiệm thuần túy[27] bỗng nhiên suýt chút nữa thì trở thành “cuốn sách mang tính biểu tượng” cho tín ngưỡng của phái dân chủ-xã hội cách mạng. Trong hàng ngũ trí thức mác-xít có lẽ cũng chẳng có mấy người đọc Avenarius vì đọc ông không phải là việc dễ và nhiều người có lẽ đã thực sự tin rằng Avenarius là một người “bolshevik” thông minh nhất. Trên thực tế, Avenarius, cũng như bất kỳ triết gia nào khác của Đức, có rất ít quan hệ với phong trào dân chủ-xã hội, thí dụ như phái tư sản tự do cũng có thể sử dụng triết học của ông thành công không kém, thậm chí dùng Avenarius để biện hộ cho việc ngả sang “hữu” của mình nữa. Cái chính cần phải nói là nếu giả sử Avenarius chỉ đơn giản như Bogdanov, Lunacharski và những người khác nghĩ, nếu giả sử triết học của ông chỉ là chủ nghĩa duy vật sinh học với não bộ ở trung tâm, thì ông đã không cần phải phát minh ra các hệ thống C khác nhau, những hệ thống được giải phóng khỏi mọi tiền đề và ông đã không được ngay cả những người phản đối công nhận là một bộ óc hùng mạnh và có lô gich sắt đá[28]. Thực ra thì những người mác-xít theo trường phái phê phán kinh nghiệm chủ nghĩa đã không còn gọi mình là duy vật nữa, họ nhường chủ nghĩa duy vật cho những người “melshevik” lạc hậu, như Plekhanov và những người khác, nhưng chính chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán thì lại bị họ nhuộm màu duy vật và siêu hình. Bogdanov ra sức nhiệt tình cổ xuý cho những lời bịa tạc siêu hình thô lậu, hoài công nhắc đến tên Avenarius, Mach và những người nổi tiếng khác, còn Lunacharski thì dựa vào ngay chính Avenarius để bịa ra cho giai cấp vô sản một tôn giáo mới. Đa số các triết gia châu Âu đều rất trừu tượng và tách biệt với đời sống, họ không thể ngờ là mình đã có vai trò như thế nào trong những cuộc tranh luận và cãi cọ của giới trí thức mang tính phe nhóm của chúng ta và hẳn sẽ rất ngạc nhiên nếu có người nói cho họ biết rằng những tư tưởng đầy trọng lượng của họ đã biến thành những cuốn sách mỏng dính nhẹ hều.
Nhưng số phận của Nietzsche mới thật là đáng buồn. Con người đơn độc căm thù mọi thứ dân chủ này, khi sang đến nước ta, đã bị đẩy vào một quá trình dân chủ hóa rất trâng tráo. Nietzsche bị xé thành từng mảnh, ai cũng được một phần và mỗi người đều có thể sử dụng nó cho mục đích của mình. Hóa ra là Nietzsche, người lúc chết vẫn nghĩ rằng mình là người chẳng ai cần đến và cô đơn trong nỗi đau khổ cao thượng, thì nay lại rất được cần đến để làm cho chủ nghĩa Marx được tươi tắn và sinh động. Một mặt, một đống những bầy đàn cá nhân chủ nghĩa của chúng ta theo trường phái Nietzsche bắt đầu cựa quậy, mặt khác, Lunacharski lại dùng Marx, Avenarius và Nietzsche để làm thành một món nộm hổ lốn mà nhiều người rất thích, nhiều người thấy là rất ngon. Tội nghiệp cho Nietzsche quá! Tội nghiệp cho tư tưởng Nga quá! Giới trí thức đói khát của nước Nga đã được cho xơi biết bao nhiêu là món, món nào họ cũng chấp nhận, món nào họ cũng xơi với hy vọng là sẽ chiến thắng được những điều tệ hại của chế độ chuyên chế và nhân dân sẽ được giải phóng. Tôi sợ rằng ngay cả những học thuyết siêu hình nhất và huyền bí nhất cũng sẽ bị cải biến cho phù hợp với nhu cầu sử dụng nội địa mất thôi. Nhưng những điều xấu xa của đời sống Nga, những điều xấu xa của chế độ chuyên chế và nô lệ thì không thể bị đánh bại bằng thứ đó vì những điều xấu xa ấy không thể bị đánh bại bằng cách tiếp thu lệch lạc những học thuyết cực đoan như thế. Cả Avenarius, cả Nietzsche, và ngay cả chính Marx nữa cũng chẳng giúp được gì nhiều cho chúng ta trong cuộc đấu tranh với cái ác đã tồn tại hàng thế kỷ, cái ác đã làm méo mó bản chất của chúng ta và làm cho chúng ta trở thành tối dạ đến như thế trước các chân lý khách quan. Những quan tâm tư duy lý thuyết của chúng ta bị hạ thấp, còn chính cuộc đấu tranh thực tế với cái ác thì lại luôn có tính chất như truyền bá những học thuyết trừu tượng. Triết học ở ta được gọi là chân chính nếu nó giúp cho cuộc đấu tranh chống chế độ chuyên chế nhân danh chủ nghĩa xã hội, còn việc nhất thiết phải tuyên truyền cho triết lý “chân chính” đó thì được thừa nhận như phương diện chủ yếu của chính cuộc đấu tranh này.
Chính những đặc điểm tâm lý đó của giới trí thức Nga đã khiến họ bỏ qua nền triết học độc đáo của nước Nga cũng như bỏ qua nội dung mang tính triết học của nền văn học vĩ đại của nước Nga. Người ta đã hoàn toàn không để ý đến và không hiểu thấu nhà tư tưởng tầm cỡ như Chaadaev[29], ngay cả những người đã từng nhắc đến tên ông. Dường như đã có đủ cơ sở để công nhận rằng Vl. Soloviev là nhà triết học của dân tộc chúng ta để có thể xây dựng truyền thống triết học dân tộc xung quanh tên tuổi của ông. Vì rõ ràng là không thể xây dựng truyền thống này xung quanh tên tuổi của Kohen[30], Windelband[31] hay một người Đức nào đó, xa lạ với tâm hồn Nga được. Soloviev có thể trở thành niềm tự hào cho nền triết học của bất kỳ nước châu Âu nào. Nhưng giới trí thức Nga không đọc Vl. Soloviev, không biết đến ông và không công nhận ông là người của mình. Triết học của Soloviev vừa sâu sắc vừa độc đáo nhưng nó không đặt cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, nó xa lạ với chủ nghĩa dân túy và chủ nghĩa Marx, nó không thuận tiện để biến thành công cụ đấu tranh với chế độ chuyên chế vì vậy mà không cung cấp được cho giới trí thức một “thế giới quan” phù hợp, nó trở thành xa lạ với họ hơn là “nhà mác-xít” Avenarius hay “người dân túy” Comte[32] và những người ngoại quốc khác. Dostoievski dĩ nhiên là một nhà siêu hình học vĩ đại nhất của Nga, nhưng siêu hình học của ông không vừa sức với các tầng lớp rộng rãi của giới trí thức Nga, ông bị nghi là “phản động” đủ loại, mà quả thật ông cũng đã tạo ra lý do cho sự ngờ vực đó. Thật buồn khi phải nói rằng giới trí thức Nga, vốn có tinh thần thực chứng, đã không linh cảm được tinh thần siêu hình học của các nhà văn vĩ đại Nga là thân thuộc với mình. Vẫn còn bỏ ngỏ vấn đề là: các nhà văn ấy hay cái thế giới của trí thức trong ý thức hiện đang thống trị, ai là người mang tính dân tộc hơn. Giới trí thức thậm chí không công nhận L. Tolstoi là người của mình một cách thực sự, nhưng họ phải làm hòa với ông vì tinh thần dân túy của ông và vì có thời họ đã chịu ảnh hưởng tinh thần của chủ nghĩa Tolstoi. Trong chủ nghĩa Tolstoi cũng có chính cái sự thù địch ấy đối với triết học cao siêu, đối với sáng tạo, xem những thứ xa sỉ ấy là tội lỗi.
Tôi thấy buồn nhất là giới trí thức Nga khăng khăng không muốn làm quen với những mầm mống của triết học Nga. Mà triết học Nga không chỉ giới hạn ở hiện tượng sáng chói như Vl. Soloviev. Mầm mống của nền triết học mới đặt nền tảng trên cơ sở nhận thức cao nhất, vượt qua chủ nghĩa duy lý phương Tây, có thể được tìm thấy ngay cả ở Khomiakov[33]. Bên cạnh đó còn có một nhân vật nữa là Chicherin, ta có thể học hỏi được ở ông nhiều điều. Sau đó là Kozlov[34], Công tước Trubetskoi[35], Lopatin, N. Losski[36], cuối cùng là V. Nesmelov[37], một người chưa nổi tiếng nhưng là hiện tượng sâu sắc nhất được sinh ra trên một nền tảng tách biệt và xa lạ với tình cảm của giới trí thức hàn lâm. Trong nền triết học Nga dĩ nhiên là tồn tại rất nhiều sắc thái, nhưng cũng có cái gì đó chung, mang tính đặc thù, tạo ra một truyền thống triết học mới nào đó, khác biệt với truyền thống thịnh hành ở châu Âu đương đại. Dòng chủ lưu của triết học Nga vẫn tiếp tục giữ được các truyền thống triết học vĩ đại của quá khứ, của Hy Lạp và Đức, trong đó vẫn còn sống động tinh thần của Platon và chủ nghĩa duy tâm kinh điển Đức. Nhưng chủ nghĩa duy tâm Đức đã dừng lại ở giai đoạn cực kỳ trừu tượng và cực kỳ duy lý, được hoàn tất bởi Hegel. Các nhà triết học Nga, bắt đầu từ Khomiakov, đã phê phán kịch liệt chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy lý trừu tượng của Hegel và chuyển sang hướng không theo chủ nghĩa kinh nghiệm, cũng không theo chủ nghĩa phê phán mới mà theo chủ nghĩa duy tâm cụ thể, chủ nghĩa hiện thực bản thể luận, bổ sung môn huyền học vào lý trí đã đánh mất hiện thực sống động của triết học châu Âu. Không thể không nhận thấy mầm mống sáng tạo của xu hướng mới này của triết học. Triết học Nga chứa đựng trong lòng nó mối quan tâm mang tính tôn giáo và dung hòa tri thức với đức tin. Cho đến nay triết học Nga chưa cung cấp cho người ta “thế giới quan”, theo cái nghĩa mà chỉ riêng giới trí thức Nga quan tâm, trong ý nghĩa phe nhóm. Nền triết học này không liên quan trực tiếp tới chủ nghĩa xã hội, mặc dù Công tước Trubetskoi đã gọi học thuyết của mình về sự thống nhất của tri thức là chủ nghĩa xã hội siêu hình; nền triết học này không quan tâm tới chính trị theo nghĩa trực tiếp của từ này, mặc dù những người đại diện sáng giá nhất của nó vẫn có một khát khao thầm kín về nước Chúa trên trái đất. Nhưng nền triết học Nga cũng có những tính chất thân thuộc với giới trí thức Nga, đấy là khát khao một thế giới quan hoàn chỉnh, sự kết hợp một cách hữu cơ chân lý và điều thiện, kiến thức và đức tin. Có thể thấy thái độ thù địch đối với chủ nghĩa duy lý trừu tượng ngay cả ở những nhà triết học Nga theo xu hướng hàn lâm. Tôi nghĩ rằng chủ nghĩa duy tâm cụ thể, gắn với thái độ thực tiễn đối với đời thường có thể trở thành cơ sở của sự sáng tạo triết học mang tính dân tộc của chúng ta và có thể tạo ra truyền thống triết học mang tính dân tộc mà chúng ta cần[38]. Lòng ham mê theo kiểu sớm nở tối tàn các học thuyết thời thượng của châu Âu phải bị đối kháng lại bằng truyền thống, còn truyền thống thì vừa phải có tính chất toàn cầu, vừa có tính chất dân tộc, chỉ khi đó nó mới có kết quả tốt đẹp cho văn hóa mà thôi. Trong triết học của Vl. Soloviev và các triết gia Nga gần gũi với ông về mặt tâm hồn, có truyền thống mang tính toàn cầu, truyền thống toàn châu Âu và toàn nhân loại, nhưng có một vài xu hướng của nền triết học này có thể tạo ra cả truyền thống dân tộc nữa. Điều đó sẽ không dẫn tới việc coi thường và cũng không xuyên tạc tất cả các hiện tượng có ý nghĩa quan trọng trong tư tưởng châu Âu như giới trí thức theo chủ nghĩa thế giới của chúng ta đã từng coi thường và xuyên tạc chúng, mà sẽ dẫn tới việc thâm nhập một cách sâu sắc và với tinh thần phê phán vào bản chất của các hiện tượng đó. Chúng ta không cần sự bịa tạc mang tính phe nhóm mà cần một nền văn hóa triết học nghiêm túc, vừa mang tính toàn nhân loại vừa mang tính dân tộc nữa. Nói cho ngay, Vl. Soloviev và Công tước S. Trubetskoi là những người châu Âu hơn là Bogdanov và Lunacharski; họ là những người truyền bá tinh thần triết học thế giới và đồng thời lại là các nhà triết học đầy tinh thần dân tộc vì họ đã đặt nền móng cho triết lý của chủ nghĩa duy tâm cụ thể. Thành kiến do lịch sử để lại đã đưa giới trí thức Nga đến tâm thế làm cho nó không thể nhìn thấy cơ sở cho việc tìm kiếm chân lý của mình trong nền triết học Nga. Giới trí thức của chúng ta quý trọng tự do nhưng lại theo cái triết lý chẳng có chỗ cho tự do, quý trọng tính cá nhân nhưng lại theo cái triết lý chẳng có chỗ cho cá nhân, quý trọng ý nghĩa tiến bộ nhưng lại theo cái triết lý chẳng có chỗ cho ý nghĩa tiến bộ, quý trọng tính thống nhất của toàn nhân loại nhưng lại theo cái triết lý chẳng có chỗ cho tính thống nhất của toàn nhân loại, quý trọng lẽ công bằng và mọi điều cao cả khác nhưng lại theo cái triết lý chẳng có chỗ cho công bằng cũng như chẳng có chỗ cho bất kỳ điều cao cả nào. Đây gần như là nhận thức sai lệch hoàn toàn do toàn bộ lịch sử của chúng ta để lại. Giới trí thức, trong bộ phận tốt đẹp nhất của nó, sẵn sàng hy sinh thân mình một cách cuồng tín, nhưng đồng thời lại cũng cuồng tín như thế khi (thêm chữ khi) tin vào chủ nghĩa duy vật, tức là cái lý thuyết phủ nhận mọi sự hy sinh; triết học vô thần, mà giới trí thức cách mạng lúc nào cũng say mê, không thể biện hộ cho bất kỳ giá trị thiêng liêng nào, thế mà giới trí thức lại gán cho triết lý này tính chất thiêng liêng và yêu quý chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần một cách cuồng tín gần như kiểu Thiên chúa giáo. Tư tưởng triết học mang tính sáng tạo phải loại bỏ cho bằng được sai lệch nhận thức này và đưa được nhận thức ra khỏi ngõ cụt đó. Ai mà biết ngày mai ở ta triết lý nào sẽ trở thành thời thượng, có thể là triết học thực dụng của James[39] hay của Bergson[40], người ta cũng sử dụng họ giống như đã từng sử dụng Avenarius và các nhà triết học khác vậy thôi, mà cũng có thể là một triết lý mới nào đó. Nhưng như thế, về mặt phát triển triết học, chúng ta sẽ chẳng tiến thêm được một bước nào.
Thái độ thù địch mang tính truyền thống của giới trí thức Nga đối với tư duy triết học thể hiện cả ở đặc tính của môn huyền học mới mẻ nhất của chúng ta. Con đường mới, tờ tạp chí chuyên về những tìm tòi trong lĩnh vực tôn giáo và huyền học, bị ảnh hưởng nặng nề nhất vì không có nhận thức triết học rõ ràng, nó giữ thái độ gần như khinh miệt triết học. Những nhà huyền học tuyệt vời của chúng ta như Rosanov, Merezhkovski, Viach, Ivanov, mặc dù đã cung cấp rất nhiều chất liệu cho triết học nhưng lại có thái độ phản triết học, có thái độ phủ nhận trí tuệ triết học theo kiểu vô chính phủ. Vl. Soloviev, người liên kết được huyền học với triết học, đã từng nhận xét rằng người Nga có thói hạ thấp nhân tố trí tuệ. Xin được bổ sung là thái độ ghét bỏ đối với trí tuệ khách quan có thể thấy ở cả phái “tả” lẫn phái “hữu” của chúng ta. Thế mà môn huyền học của Nga, thực ra là rất có giá trị, lại cần phải được khách quan hóa và tiêu chuẩn hóa về mặt triết học thì mới mang lại nhiều lợi ích cho nền văn hóa của chúng ta. Nếu có thể thì tôi xin nói rằng khởi nguyên Dionysus của huyền học cần phải kết hợp với khởi nguyên Apollo[41] của triết học. Cả các nhà huyền học lẫn các trí thức-vô thần Nga đều cần vun đắp lòng yêu thích nghiên cứu khía cạnh triết học của chân lý. Triết học là một trong những cách làm cho huyền học trở thành khách quan; chỉ có tôn giáo tích cực mới có thể có hình thức khách quan trọn vẹn và đầy đủ mà thôi. Giới trí thức Nga thường có thái độ nghi ngờ và thù địch đối với huyền học, nhưng thời gian gần đây đã có một bước ngoặt và e rằng trong bước ngoặt này cũng lại xuất hiện mối thâm thù truyền thống với trí tuệ khách quan, cũng như chính huyền học có xu hướng phục vụ cho những mục tiêu xã hội truyền thống.
Cần phải có một cuộc cải cách triệt để trong nhận thức của giới trí thức và ngọn lửa thanh tẩy của triết học được kêu gọi giữ vai trò không nhỏ trong sự nghiệp quan trọng này. Tất cả dữ liệu lịch sử và tâm lý đều cho thấy rằng giới trí thức Nga chỉ có thể đi đến nhận thức mới trên cơ sở kết hợp kiến thức với đức tin, một sự kết hợp đáp ứng được nhu cầu có giá trị tích cực của trí thức là kết hợp một cách hữu cơ lý thuyết với thực tiễn, “sự thật-chân lý” với “sự thật-công bằng”. Nhưng hiện nay chúng ta cần phải công nhận về mặt tinh thần giá trị tự thân của chân lý, quy thuận trước chân lý và sẵn sàng nhân danh chân lý mà từ bỏ các tín điều của mình[42]. Điều đó sẽ tạo ra một luồng gió làm tươi mát sự nghiệp sáng tạo văn hóa của chúng ta. Vì triết học là bộ phận tự nhận thức của tâm hồn con người, nhưng đây không phải là bộ phận mang tính cá nhân mà có tính siêu việt vượt trên cá nhân và mang tính thống nhất. Nhưng tính siêu việt và thống nhất của nhận thức triết học lại chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở của truyền thống toàn cầu và dân tộc. Củng cố truyền thống đó chắc chắn sẽ giúp thúc đẩy quá trình hồi sinh nền văn hóa Nga. Đây là quá trình hồi sinh vui sướng được mong đợi từ lâu, việc đánh thức những tâm hồn đang mơ màng ngủ đòi hỏi sự giải phóng không chỉ về mặt chính trị mà còn giải phóng khỏi quyền lực nặng nề của chính trị, một sự khai phóng tư tưởng hiếm khi gặp được ở những chiến sĩ giải phóng về mặt chính trị của chúng ta[43]. Lịch sử nước Nga đã tạo ra giới trí thức Nga, lề thói tâm lý của nó phản ánh những khuyết tật của cái lịch sử bệnh hoạn của chúng ta, của chính quyền chúng ta trong lịch sử và của phản ứng cố hữu của chúng ta. Chế độ chuyên chế già cỗi đã làm méo mó tâm hồn giới trí thức, nô dịch nó không chỉ bên ngoài mà cả bên trong vì nó đã đánh giá tâm hồn người trí thức một cách tiêu cực. Nhưng chỉ những người không xứng đáng với tự do mới luôn kết án những lực lượng bên ngoài và dùng tội lỗi của chúng để biện hộ cho mình. Chính giới trí thức cũng có lỗi: thái độ vô thần trong nhận thức của nó chính là khiếm khuyết ý chí của nó, nó đã tự chọn lấy con đường sùng bái con người và bằng cách đó đã tự làm méo mó tâm hồn mình, đã giết chết bản năng hướng đến chân lý ngay trong chính mình. Chỉ có sự tự ý thức tội lỗi của cái ý chí có khả năng nhận thức của chúng ta, mới có thể đưa chúng ta đến một đời sống mới mà thôi. Chúng ta sẽ giải thoát khỏi cái ách bên ngoài chỉ khi nào chúng ta giải thoát khỏi sự nô dịch bên trong, nghĩa là tự nhận lãnh trách nhiệm và không kết án các lực lượng bên ngoài trong tất cả mọi chuyện nữa. Khi ấy một tâm hồn mới sẽ sinh ra trong giới trí thức chúng ta.
Năm 1909
PHẠM NGUYÊN TRƯỜNG dịch và chú thích
N. A. Berdjaev(1874-1948) một nhà triết học lớn, từng có thời say mê chủ nghĩa Marx và bị đi đầy vì các hoạt động cách mạng trong phong trào sinh viên. Bị bắt đi lưu đầy từ năm 1922, từ đó hoạt động khoa học của ông diễn ra ở Paris cho đến cuối đời. Bài Chân lý của triết học và sự thật của người trí thức được đăng trong tập Những cột mốc, xuất bản năm 1909.
_____________________
Chú thích:
[1]N. K. Mikhailovski (1842-1904), nhà xã hội học, nhà báo và nhà phê bình văn học Nga, lý thuyết gia của phong trào dân túy.
[2]Glev Uspenski (1843-1902), nhà văn Nga. Tác phẩm của ông thấm đẫm tinh thần dân chủ và dân túy.
[3]V. G. Belinski (1811-1848), nhà phê bình văn học nổi tiếng người Nga.
[4]L. N. Tolstoi (1828-1910), Nhà văn vĩ đại người Nga với các tác phẩm như Chiến tranh và hòa bình, Ana Karenina, Phục sinh...
[5]F. M. Dostoievski (1821-1881), Nhà văn vĩ đại người Nga với các tác phẩm như Tội ác và hình phạt, Anh em nhà Karamazov...
[6]P. D. Iurkevich (1826-1874), nhà triết học, thần học và nhà sư phạm nổi tiếng người Nga.
[7]Chernyshevski N. G. (1828-1889), nhà chính luận và nhà phê bình văn học nổi tiếng. Tư tưởng xã hội chủ nghĩa của ông được thể hiện rõ trong tác phẩm Làm gì?
[8]P. L. Lavrov (1823-1900), nhà triết học và xã hội học người Nga, một trong những lý thuyết gia của phong trào dân túy cách mạng.
[9]Pisarev D. I. (1840-1868), nhà báo và nhà phê bình văn học người Nga.
[10]Plekhanov G. V. (1856-1918), nhà triết học và nhà hoạt động nổi tiếng trong phong trào dân chủ-xã hội quốc tế người Nga.
[11]Avenarius R. (1843-1896), triết gia người Thụy Sĩ, một trong những người sáng lập chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán.
[12]E. Mach (1838-1916), nhà vật lý học và triết học người Áo, một trong những người đặt nền móng cho chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán.
[13]Bogdanov (tên thật là Malinovski) A. A. (1873-1928), bác sĩ, triết gia và nhà kinh tế học người Nga.
[14]Lunacharski A. V. (1875-1933), nhà văn, nhà phê bình văn học nổi tiếng. Từng giữ chức bộ trưởng giáo dục trong chính quyền Xô-viết, một trong những người đặt nền móng cho hệ thống giáo dục Liên Xô.
[15]Kant E. (1724-1804), ông tổ của nền triết học cổ điển Đức.
[16]Vl. Soloviev (1853-1900), nhà thơ và triết gia nổi tiếng người Nga.
[17]Đại pháp quan tôn giáo là nhân vật trong tác phẩm Anh em nhà Karamazov của F. M. Dostoievski, người sẵn sàng nhân danh hạnh phúc của nhân loại mà hy sinh cả Chúa lẫn chân lý.
[18]Lopatin G. A. (1845-1818), nhà cách mạng của phong trào dân túy.
[19]Nietzsche F. (1844-1900), triết gia vĩ đại người Đức.
[20]Ý tôi muốn nói đến chủ nghĩa thực chứng khoa học chứ không phải chủ nghĩa thực chứng triết học. Phương Tây tạo ra tinh thần khoa học, cái tinh thần mà ở đó cũng biến thành vũ khí chống lại tôn giáo và siêu hình học, nhưng phương Tây không có thói cực đoan của người Slav; phương Tây tạo ra nền khoa học trung lập với cả tôn giáo lẫn siêu hình học.
[21]Chicherin G. V. (1828-1904), luật sư, triết gia và nhà sử học nổi tiếng người Nga.
[22]P. B. Struve (1870-1944), nhà kinh tế học, triết học, sử học nổi tiếng người Nga, từ năm 1920 sống lưu vong ở nước ngoài.
[23]Riehl (1844-1924), triết gia người Đức, giáo sư triết học ở Berlin (1905-1917), là người theo phái Hegel trẻ.
[24]Georg Simmel (1858-1918) là thuộc thế hệ đầu tiêncủa những nhà xã hội học người Đức.
[25]Fichte I. (1762-1818), đại diện nổi tiếng của trường phái triết học cổ điển Đức.
[26]Kornelius Hans (1863-1947), nhà triết học Đức.
[27]Tác phẩm của Avenarius, gồm 2 tập, xuất bản năn 1888-1890.
[28]Avenarius không giải thoát khỏi các “tiền đề”, quan điểm nhận thức luận của ông rất lộn xộn, có hơi hám của “chủ nghĩa duy vật” và “thuyết duy linh” và nhiều thứ khác nữa, nhưng không đơn giản chút nào.
[29]Chaadaev P. Ia. (1794-1856) - nhà tư tưởng và chính luận nổi tiếng người Nga.
[30]Kohen (1842-1918) - triết gia người Đức, người sáng lập và đại diện nổi tiếng nhất của trường phái Kant trẻ ở Marburg.
[31]Windelband (1848-1915) - triết gia người Đức, người sáng lập và đại diện nổi tiếng nhất của trường phái Kant trẻ ở Baden.
[32]Comte (1798-1857) - triết gia, nhà xã hội học... người Pháp, người sáng lập trường phái triết học mang tên chủ nghĩa thực chứng.
[33]Khomiakov A. S. (1804-1860), triết gia, nhà thơ và nhà chính luận nổi tiếng người Nga.
[34]Kozlov A. A. (1831-1901), nhà triết học nổi tiếng người Nga
[35]Công tước Trubetskoi (1863-1920), nhà triết học và luật học nổi tiếng người Nga.
[36]N. Losski (1870-1965), triết gia nổi tiếng người Nga, từ năm 1922 phải sống lưu vong.
[37]Nesmelov V. I. (1863-1920), triết gia tôn giáo nổi tiếng người Nga.
[38]Chân lý không thể mang tính dân tộc, chân lý bao giờ cũng là vạn năng, nhưng các dân tộc khác nhau có thể có sứ mệnh phát hiện ra những khía cạnh khác nhau của chân lý. Tính chất tâm hồn của dân tộc Nga chỉ ra rằng chúng ta có sứ mệnh sáng tạo trong lĩnh vực triết học mang tính tôn giáo (Chú thích trong nguyên tác).
[39]James W. (1842-1910), nhà triết học và tâm lý học nổi tiếng người Mĩ.
[40]Bergson A. (1859-1941), triết gia nổi tiếng người Pháp.
[41]Dionysus và Apollo là các vị thần trong thần thoại Hy Lạp. Triết gia Nietzsche cho rằng Dionysus tượng trưng cho khêu gợi và điên rồ, còn Apollo đại diện cho lý lẽ, văn hóa, hài hòa và kiềm chế. Ông cho rằng bi kịch Hy Lạp là sự tổng hợp của hai thứ này.(ND)
[42]Quy thuận chân lý có giá trị đạo đức to lớn, nhưng điều đó không được dẫn tới việc sùng bái chân lý trừu tượng, chân lý chết (Chú thích trong nguyên tác).
[43]Việc giải phóng về mặt chính trị chỉ có thể được thực hiện cùng với việc hồi sinh về tinh thần và văn hóa và trên cơ sở của sự hồi sinh đó (Chú thích trong nguyên tác).