Những góc nhìn Văn hoá

Cải cách, duy tân của Nguyễn Trường Tộ, đặc điểm, tính chất, tầm vóc và quy mô [phần 2]

Mộ Nguyễn Trường Tộ ở Hưng Trung, Hưng Nguyên, Nghệ An. Ảnh An Thư

...

B. Cải cách giáo dục, đào tạo - quan niệm và mục đích

 Trong các điều trần của Nguyễn Trường Tộ, rất nhiều phương diện được bàn tới, được đề nghị thay đổi. Có nội dung của thay đổi được cụ thể hóa, chi tiết hóa, có phân tích lập luận, xác lập sự cần thiết phải thay đổi. Trong rất nhiều nội dung đó, giáo dục được Nguyễn Trường Tộ bàn nhiều, cụ thể, chi tiết so với các vấn đề khác. Thống kê và so sánh để thấy Nguyễn Trường Tộ quan tâm sâu nhất, dành nhiều tìm hiểu nhất và phân tích từng vấn đề là một công việc đòi hỏi đi sâu hơn, ở đây bàn về một vài đặc điểm trong các đề xuất của Nguyễn Trường Tộ.

 Ngoài việc tập trung phác thảo hệ thống giáo dục thì việc đào tạo còn được Nguyễn Trường Tộ đề xuất thêm nhiều hướng cụ thế, đó là, 1/hướng gửi người sang Tây, cái mà bây giờ chúng ta gọi là du học, và 2/hướng mời Tây vào khai thác và từ đó người Việt học được trực tiếp từ sản xuất, thực hành của Tây. Cả ba hướng đào tạo đều có một điểm chung mà ông chú ý, đó là đào tạo kỹ thuật, kỹ nghệ, những môn học thiết thực cho sản xuất, khai thác, còn các môn thuộc cái mà bây giờ ta gọi là khoa học cơ bản, khoa học nhân văn, khoa chính trị học,… thì tuyệt không được nhắc đến, dù ông có nói đến học phương pháp mới của phương Tây.

 Tập trung bàn việc giáo dục vào hai điều trần quan trọng Tế cấp bát điều (Di thảo 27) và Về việc học thực dụng (Di thảo 18), còn nhiều điều trần khác ông cũng bàn về giáo dục. Ông phê phán lối học từ chương, hư học, ông đề xuất thực học, học những bộ môn liên quan thiết thực đến khoa học thực nghiệp. Ông, như một chiến lược gia, vạch một thiết kế các chuyên ngành, kiểu cách của một thiết kế tổng thể, đề xuất từ trường quốc học, tỉnh học, trường tư cho đến thi Hương, thi Hội, và như một chuyên gia cho từng ngành, ông thuyết minh cả những nội dụng cụ thể trong từng chuyên ngành, nghĩa là ông đi sâu vào các bộ phận riêng lẻ. Nguyễn Trường Tộ còn đề xuất cả cách thi lẫn nội dung thi, nghĩa là cả vạch chương trình, phân bố các cấp, cả việc ta ngày nay gọi là khảo thí, cả việc ý nghĩa, tính tư tưởng của nội dung học và thi.

Nhìn tổng quát như vậy là hệ thống, là toàn diện, nhưng đi sâu vào cái cụ thể thì ở đây có sự cộng cái mới vào hệ thống cũ, cái cũ là cái gì, cái mới được thêm là bộ phận lẩy ra từ một hệ thống giáo dục khác mà không phải là cả hệ thống giáo dục. Như trên kia đã trích dẫn quan niệm của ông là lấy “phương pháp hay của mình” và “cả những phương pháp hay trên thế giới” để hợp dụng, thực hành song hành cho hiện tại. Từ cách nhìn này ông luôn nói đến tìm trong sách cổ nhặt hết ra, dù một vài câu, thu thập, sửa lại, rồi lựa trong sách Tây, chỗ nào nói về cái cần thiết dịch ra[i]. Trong tư tưởng hợp dụng này, có ảo tưởng về kết quả của nó, khi ông nghĩ rằng: “Như thế những cái mới của thiên hạ có mình cũng có và những cái mình sẵn có thì thiên hạ không có. Lấy hai điều biết mà địch lại một điều biết… Như thế ai dám khinh rẻ nước mình?”. Dẫu ông có nói dùng cái phương pháp của ta và của Tây, dùng những cái “không trái ngược nhau” nhưng như vậy, sự thay đổi mang trính triệt để căn bản vẫn khó khăn, khi mà sự không tương thích từ cái gốc căn bản là quan niệm và mục đích của giáo dục, quan niệm về sản phẩm giáo dục. Nguyễn Trường Tộ dường như quan tâm đến sản phẩm giáo dục là nội dung kỹ thuật có giá trị thực hành cho người học, của giáo dục, mà như không chú ý vai trò cá nhân tự do, bình đẳng, độc lập như Fukuzawa, người quan niệm: “Cá nhân có độc lập thì gia đình mới độc lập. Và như thế quốc gia cũng độc lập[ii]. Cá nhân và quốc gia có mối quan hệ nơi tinh thần, tư duy độc lập của mỗi người.  

 Phê phán hư học, học từ chương, lấy cái cũ, cổ xưa làm đích đến, lấy văn chương làm thước đo con người, thước đo văn hóa, lấy nghề nho làm trọng mà coi thường nghề khác,… đó là những vấn đề vừa nêu ở trên và đã phân tích ở các phần khác. Có dịp sẽ phân tích, phân loại thêm về các cách ông phê phán, nội dung sự phê phán ở bệnh hư học. Ở đây nói rõ cái học thực dụng và cách nghĩ về học thực dụng, một chủ trương có tính cải cách mạnh mẽ của Nguyễn Trường Tộ, nó khác một cách căn bản với cái học truyền thống, truyền thống nho học, và trong một mức độ nào đó, chúng ta so sánh cái học thực dụng của Nguyễn Trường Tộ với cái học thực dụng mà Fukuzawa, người cùng thời và có cùng chủ trương, để nhìn thấy cái khác nhau giữa hai đề xuất.

Trong điều trần Tám việc cần làm ngay, ở điều thứ tư: “xin sửa đổi học thuật, chú trọng thực dụng”, là câu hỏi để định nghĩa việc học, mục đích việc học, đối tượng cần học: Vậy học là gì? Một vấn đề như thế cần phải đặt ra, một định nghĩa nội dung kiểu như thế thường gắn với tư duy phân tích. Fukuzawa cũng dùng phần 9 trong sách Khuyến học để nói điều đó: Mục đích của học vấn.

 Nội dung học mà Nguyễn Trường Tộ xác lập là học cái chưa biết, và là cái để thực hành được: “Vậy học là gì? Là học những gì chưa biết để biết mà đem ra thực hành. (Nhưng thực hành cái gì? Thực hành ở đâu?). Đó là thực hành những gì thực tế trước mắt và còn để lại lợi ích cho đời sau nữa[iii]. Cái đem ra thực hành được trong thực tế, là có ý nghĩa thực dụng, học cái thực dụng, cái có ích, không học cái vô dụng, vô ích: “Học những gì thực tế thì sẽ có thực dụng[iv]. Từ quan niệm học thực dụng ông đề xuất các khoa, các môn để góp phần dần dần làm tiêu tan cái “tệ đoan”[v] do hư học đưa lại, đó là các khoa: Nông chính, thiên văn, địa lý, công kỹ nghệ, luật học. Các khoa đó bao gồm mấy khoa mà ông đã đề nghị một năm trước đó, năm 1866, trong điều trần Về việc học thực dụng: khoa hải lợi, khoa sơn lợi, khoa địa lợi, khoa thủy lợi và cả đáp ứng các ngành chế biến, cất giữ thực phẩm, đồ gia dụng, bào chế thuốc, trồng trọt, lập hãng buôn... Trong điều trần Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh, có thể ông đã khảo sát giá cả ở phương Tây để đi đến nhận xét rằng: “Về biển thì không có nguồn lợi nào lớn bằng cá với muối”, “rừng thì không có gì lớn bằng gỗ” “ đất đai thì không có gì lớn bằng tơ gai”, “về mỏ thì không có gì lớn bằng đồng và thiếc[vi].

       Mô hình các ngành thiết yếu, thiết thực, trong hệ thống này không thấy cái đại toàn toát yếu của sách giáo khoa Nho giáo(?), nhưng nó có đúng hệ thống trường và các ngành riêng rẽ của nó đúng mô hình phương Tây đương thời, so với hệ thống trường mà Fukuzawa thành lập khác nhau không, khi cả hai đều chịu ảnh hưởng giáo dục, đào tạo phương Tây.

       Nguyễn Trường Tộ cũng nói ông phác thảo để, 1/“dễ làm”, nghĩa là lựa chọn có tính đến khả năng tiếp nhận hay các điều kiện hiện tại, và 2/“để dẫn tới nhiều tác dụng to lớn sau này”, nghĩa là lựa chọn cái hữu ích cho mai sau, không chỉ là cái trước mắt, và nếu triều đình muốn, ông còn có thể trình bày rõ ràng từng điều. Sự thay đổi được ông xác định là mở ra dần trong tương lai, nghĩa là cấu trúc hiện tại mà ông vạch ra chỉ là giản lược một cách tối ưu do tính toán cho thích hợp: “Các điều kể trên là tôi chỉ chọn những điều tầm thường dễ làm để dẫn tới nhiều tác dụng to lớn sau này. Đó chỉ là toát yếu mấy đề cương lớn mà thôi. Còn các đề mục nhỏ trong đó không thể nói hết từng cái một (Dùng năm sáu trăm trang giấy cũng chưa thể viết hết). Nếu Triều đình muốn đưa ra vấn đề nào, tôi xin lần lượt trình bày rõ từng điều một. Ngay như khoản tình hình chính sự hiện tại cũng đã rất nhiều, mà cũng có thể thay đổi dần dần. Điều này thật là cần gấp, thật là trọng yếu”. Xét trong cách ông nói thì sự lựa chọn của ông hướng vào những cái thiết thực, có tính đến khả năng thay đổi của đất nước thời hiện tại.

       Nhưng nguồn lực, tài lực, vật lực cho những thay đổi không thấy được ông tính đến. Hệ thống giáo viên, giáo trình, và những điều kiện cho cải cách giáo dục từ ban đầu của nó chưa thấy được đặt ra, nhất là khi chưa có một đội ngũ như thế. Đó là các tính toán vạch ra cho đào tạo trong nước cho nhu cầu hiện tại.

          Trong một điều kiện khác, điều kiện gửi người đi học nước ngoài, thì cái ông đề xuất là học cái gì, học như thế nào? Xét những phác thảo cụ thể và tuần tự, thứ tự mà ông quan tâm sau sẽ thấy: “Nếu muốn sang thông hiếu hoặc chọn người sang phương Tây học tập quan sát các cơ xưởng kỹ xảo như thế nào, các phép thiên văn, địa lý, lái thuyền hàng hải như thế nào, những cách phân biệt các thứ kim loại đá quặng và thảo mộc như thế nào, các phép tìm kiếm khai quật các mỏ như thế nào, cách làm các khí cụ thường dùng hằng ngày như thế nào, các binh cơ khí giới như thế nào, các mưu lược tung hoành như thế nào cùng là các lễ pháp ngoại giao như thế nào, mua các máy móc to nhỏ hoặc xem cách sử dụng hoặc lấy mẫu như thế nào, cách chọn những người dạy kỹ xảo như thế nào, tìm người trung tín có thể nhờ vả để tìm những nguồn lợi trong nước ta như thế nào, các phương pháp mới để phát triển kinh tế, chọn ra cái nào nên làm trước cái nào nên làm sau và ứng dụng ở nước ta như thế nào, nhất nhất phải nhận cho rõ ràng mà làm, lợi hại hoãn gấp ra sao... đều phải đồng lòng hợp sức để mọi sự được thỏa đáng. Trừ những cái bất ngờ ngoài sự trù tính của mình ra, còn thì sau này mọi người cứ thế mà làm[vii]. Đó là những nội dung rất cụ thể, chi tiết về kỹ thuật, và được quan tâm nhiều nhất, nhưng ngoài việc nói đến “các phương pháp phát triển kinh tế”, chưa thấy phác thảo tìm hiểu mô hình trường học, mô hình xã hội, chính trị liên quan. Nghĩa là dưới dạng tổng quát, dạng khái quát để phát triển văn minh từ giáo dục, đào tạo thì không được chú ý ở đây. Như thể hiện ở các trích dẫn trên thì việc học trong và ngoài nước đều có mục đích chung là vẫn nghiêng hẳn về kỹ nghệ, kỹ thuật, nghĩa là có sự thống nhất trong cách Nguyễn Trường Tộ chú ý. 

C. Cải cách kinh tế - cấp bách và lâu dài

     Việc học, việc làm giàu là hai vấn đề được Nguyễn Trường Tộ bàn nhiều nhất. Ông phân tích chủ trương làm cho nước giàu mà dân cũng giàu, nhưng không thể giàu từ thu thuế vì thuế có hạn, không phải bòn rút của dân mà phải lấy nguồn lợi tự nhiên làm ra của cải[viii]. Nguyễn Trường Tộ phân ra các nguồn lợi từ biển, về rừng, về đất đai, về mỏ mà ông cho rằng lợi về biển thì không gì bằng cá và muối, lợi về rừng không có gì bằng gỗ, lợi về đất đai thì không gì bằng tơ gai, lợi về mỏ thì không gì bằng đồng và thiếc. Ông còn nói cụ thể rằng trừ than đá ra thì giá đồng, giá thiếc ở Bắc Kỳ một quan bán ra nước ngoài tám quan, tơ, gai, cá muối cũng thế[ix]. Bốn nguồn lợi được đánh giá như thế lại nói ngoài thu thuế thì làm ra sản vật bán ra nước ngoài và mua cái cần dùng về, đó là cách nhìn đã trải qua khảo giá từ nước ngoài. Đó là cách sản xuất, khai thác hàng hóa cho thương mại tính đến hay nhìn từ thị trường bên ngoài.

      Ông cũng đề nghị bỏ bế quan tỏa cảng, phát triển thương mại, như tạo điều kiện cho nhà giàu cửa bể mua tàu lớn làm thương mại với các nước để 1/tăng thêm thu nhập từ đánh thuế xuất nhập. 2/Để tăng thêm những thứ cần dùng trong nước. Từ tính toán này ông nghĩ rằng như thế sẽ đáp ứng nhu cầu thị trường và nước ngoài sẽ thấy thông thương, không cần đến thị trường ta nữa và Tây sẽ bỏ ra đi[x]. Như vậy ông nhìn nhận việc nước ngoài xâm lược Việt Nam chỉ vì thương mại, vì thị trường, giải quyết việc này là cùng lúc giải quyết luôn nguy cơ bị mất nước. Thị trường và chính trị được đặt vấn đề về mối quan hệ giữa chúng. Nhưng giữa buôn bán và độc chiếm thị trường là chuyện cạnh tranh toàn cầu, câu chuyện không chỉ hàng hóa.

    Mở cửa khẩu, làm thương mại buôn bán, đó là nhìn trong quan hệ với thế giới, còn câu chuyện thương mại trong nước không thấy ông bàn đến như một tổng thể các kế hoạch làm giàu. Như thế mở cửa khẩu để thông thương và buôn bán chỉ là một của việc nhìn ra thương nghiệp và vai trò của nó để phát triển, là cách nhìn ra một ngạch quan trọng vốn bị coi thường trong xã hội thứ bậc xem thương ở cuối bảng.

     Mặt khác, bên cạnh tạo điều kiện cho nhà giàu buôn bán quốc tế, thì mời gọi nước ngoài đầu tư, khai thác mỏ để vừa thu lợi, thu thuế, vừa cho nhân dân có việc làm, đồng thời để cho dân học tập, làm quen với khoa học kỹ thuật Tây phương. Nhưng mời gọi khai mỏ cũng chỉ khai những mỏ mới mà khó khai thác, mỏ tốt thì để dành về sau cho ta khai thác. Ông cũng bàn đến kế hoạch tự khai mỏ, bao gồm cho người đi Tây mua các khí cụ để khai thác và chế tạo. Nhưng cũng như nhiều đề xuất, các dự án cụ thể cần bao nhiêu tài chính và khả năng đáp ứng nó trong điều kiện hiện tại thì không được bàn đến.

   Các biện pháp trên là làm giàu “để cứu giúp lúc khẩn cấp[xi], nhưng để thực hiện nó lại phải cần khoản tài chính lớn cho khai mỏ, cho đóng tàu, và cũng cần một thời gian khá dài để thực hiện, chưa nói đến những khó khăn sẽ gặp phải đến từ nhiều phía. Ngay việc “xin để cho những nhà giàu ở gần cửa bể có thể mua tàu lớn vượt bể để chở những đồ vật nước mình dư không dùng đến đem bán ở các nước[xii] thì cũng phải có đủ thời gian đào tạo, đủ điều kiện kỹ thuật, điều kiện tìm kiếm thị trường, và các điều kiện khác không dễ thực hiện một cách cấp bách.

     Cùng với đề xuất các biện pháp khẩn cấp làm giàu từ bốn nguồn lợi trên, và do quan sát thấy “các nước phương Tây giàu mạnh cũng nhờ chuyên về khoa nông nghiệp[xiii], ông đề xuất thành lập Bộ Canh nông, đặt nông quan để phụ trách nông nghiệp, thủy lâm, bởi ông nhận thức rằng “nông nghiệp là gốc[xiv] đáp ứng các nhu cầu ăn mặc, từ nhận thức đó ông đề nghị thành lập khoa nông chính, tiến hành xuất bản bộ sách Nông chính toàn thư thu thập các phương pháp nông nghiệp hợp với đất đai, thời tiết, các loại nông sản, các giống chăn nuôi, đặng bỏ lối trồng trọt chăn nuôi “phó mặc tự nhiên[xv],... cùng với điều chỉnh thuế ruộng đất cho hợp lý, không tùy tiện, xin đặt khoa thủy lợi tưới tiêu phòng úng, hạn. Một hình dung tổng thể cho nông nghiệp toàn quốc, có hướng dẫn về kỹ thuật canh nông của người nhà nước. Ngoài những biện pháp, cả kỹ thuật lẫn cách tổ chức nông nghiệp được đề nghị cải cách, ông còn đề xuất ban thưởng cho những sáng kiến về sơn lợi, địa lợi, thủy lợi, canh nông,.. Không chỉ đi từ vai trò bộ máy nhà nước về nông nghiệp, bàn đưa kỹ thuật vào nông dân, đưa thủy lợi tưới tiêu, mà bàn cả thay đổi thói quen canh tác.

         Hầu như những đề xuất cải cách nông nghiệp của Nguyễn Trường Tộ, như ông nói, đều từ việc quan sát phương Tây mà nhìn ra các vấn đề. Những đề xuất của Nguyễn Trường Tộ, khác và giống, giản lược hay thêm bớt từ những nội dung tương tự của phương Tây và mang đặc điểm gì của tiếp nhận, điều đó cần một phân tích cụ thể hơn trong những so sánh đồng đại của vấn đề được tiếp nhận./.

 

 

 

 

 


[i] “Hãy tìm trong các sách Nho từ trước đến nay xem có chỗ nào nói đến cơ xảo dù một vài câu cũng nhặt hết ra, thu thập sửa lại cho đúng. Ngoài ra, lựa lấy trong các sách Tây, chỗ nào nói về những cần thiết hàng ngày, thí dụ như các sách viết về nguồn lợi khoáng sản cũng như tất cả các sách Tây viết về máy móc, (Tôi có mua hai quyển lớn đã trình nạp rồi, trong đó nói đủ cả) rồi xin các giám mục địa phương mỗi nơi cho hai linh mục rành tiếng Nam về kinh để cùng dịch thuật với các nhà biên soạn” (Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr 292, Tế cấp bát điều, Di thảo 27).

- “ Nay xin gấp rút duyệt lại các sách Thiên văn Địa lý từ trước đến nay, chọn lấy những gì hợp với thiên thời địa thế nước ta, chắc chắn có thật lý thật sự, có thể thấy như vật trong bàn tay mà không xem đến chuyện thuật số phong thủy, những chuyện phù phiếm quàng xiên, soạn thành sách ban hành.(Tế cấp bát điều, Di thảo 27, NTT, Tr292-293. “Ngày nay nếu ta biết dần dần chỉnh đốn những thói cũ, nghĩ cách làm lợi cho công, làm lợi cho tư để ta có được phương pháp hay của mình lại có được cả những phương pháp hay trên thế giới mới sáng tạo ra nữa, hai cái cùng thực hành song song với nhau không trái ngược nhau (Những phương pháp hay này chưa kịp trình bày được). Như thế thì những cái thiên hạ mới có, ta cũng đồng thời có.” (Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr162, Kế hoạch làm cho dân giàu, nước mạnh, Di thảo 5). “Những điều tôi trình bày ở đây không phải là muốn bỏ hết cái cũ mà mưu cầu cái mới. Nhưng phải lấy cái hay của mình có sẵn, còn phải gồm những cái hay của thiên hạ mới sáng tạo ra. Như thế những cái mới của thiên hạ có mình cũng có và những cái mình sẵn có thì thiên hạ không có. Lấy hai điều biết mà địch lại một điều biết như ở đoạn giữa của bài Lục lời từ tôi đã trình bày. Như thế ai dám khinh rẻ nước mình?” (Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr224, Di thảo 18,Học thực dụng,)

 

[ii] Fukuzawa: Khuyến học, Nxb Trẻ. Tp HCM.2004, Tr 25

[iii] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr288, Di thảo 27, Tám việc cần làm ngay

[iv] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr223,Di thảo 18,Học thực dụng

[v] “cần phải tìm học cái học thực dụng, phân chia ra các khoa, các môn, ban thưởng nhiều cho những người dự thi vào các khoa, môn này để khuyến khích dần dần đưa đến kết quả lợi ích thì các tệ đoan dần dần sẽ mất đi” (Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr291,Di thảo 27)

[vi]  Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr 163,Di thảo 5

[vii]  Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr 200, Di thảo 12

[viii] “Nay nước ta, của công chỉ nhờ vào thuế, mà thuế đánh có hạn, chứ không có cách gì để làm cho của cải được nhiều như phương Tây. Cái tôi gọi là làm cho có nhiều của ở đây không có nghĩa là nói bòn rút của dân để làm cho nước giàu, mà là nhân nguồn lợi tự nhiên của trời đất để sinh ra của. Do đó nước giàu mà dân cũng giàu”- (Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr162, Kế hoạc làm cho dân giàu nước mạnh)

[ix]  Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr162- 163,Di thảo 5, Kế hoạchlàm cho dân giàu nước mạnh.

[x] “Lại xin để cho những nhà giàu ở gần cửa bể có thể mua tàu lớn vượt bể để chở những đồ vật nước mình dư không dùng đến đem bán ở các nước, rồi lại chở về những thứ thiết dụng cho nước mình và đánh thuế xuất nhập để tăng thêm những thứ cần dùng trong nước. Nếu người nào mua về được nhiều thứ có lợi cho nước thì cân nhắc mà ban thưởng để khuyến khích họ cố gắng thêm. Đấy là một điều lợi lớn. Vì rằng, những hàng hóa mình có, trừ số cần dùng ra, còn thừa đem chở bán cho họ, họ lại bán cho nước khác, như thế họ không cần phải đến nước mình làm gì. Nếu họ muốn đưa hàng hóa sản vật của họ sang thì đã có tàu của nước mình đem về để mua bán trao đổi với người cùng quê hương xứ sở, chẳng dễ làm hơn mua ở bên nước họ hay sao? Như thế tự nhiên họ không cần phải tìm đến mình nữa. Sở dĩ họ tìm đến cầu thông thương với mình là vì người mình không thể đi xa mà thôi. Có người nước ngoài nói rằng kế ấy rất độc. Nếu làm được thì không ngoài vài năm người Tây tự nhiên bỏ đất mà đi không cần phải đánh chác gì nữa”(Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002,  Tr165-166, Di thảo 5, Kế hoạc làm cho dân giàu nước mạnh).

[xi] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr163, Di thảo 5, Kế hoạc làm cho dân giàu nước mạnh

[xii] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr165, Di thảo 5, Kế hoạc làm cho dân giàu nước mạnh

[xiii] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr 291, Di thảo 27,Tế cấp bát điều

[xiv] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002,Tr 292, Di thảo 27,Tế cấp bát điều

[xv] Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo, Nxb T.p Hồ Chí Minh 2002, Tr 292, Di thảo 27,Tế cấp bát điều

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114528591

Hôm nay

2247

Hôm qua

2291

Tuần này

2864

Tháng này

215287

Tháng qua

0

Tất cả

114528591