Sinh ngày 2-5-1926 tại Thanh Chương, Nghệ An, trong một gia đình Nho học, Nguyễn Tài Cẩn đã theo học tại các trường Quốc học Vinh và Quốc học Huế. Chàng thanh niên nhỏ nhắn, mảnh khảnh này đã sớm bộc lộ năng lực tư duy siêu việt và một nghị lực phi thường. Nguyễn Tài Cẩn là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công luận án PTS (hiện nay là TS) tại Liên Xô với đề tài Từ loại danh từ tiếng Việt (1960). Đề tài nghe có vẻ đơn giản này hóa ra lại động chạm tới một loạt vấn đề cần giải quyết đối với Việt ngữ học, bởi nó liên quan tới hình thái học, ngữ pháp học, ngữ nghĩa học... của một ngôn ngữ phân tiết tính, không biến hóa hình thái như tiếng Việt. Tư tưởng học thuật này sau này đã được PGS Cao Xuân Hạo đề cao như một “bảo bối” cho “làng” ngôn ngữ học của ta: “Cách đây (2000) bốn mươi năm đã có một bậc đàn anh của ngành Việt ngữ học, GS Nguyễn Tài Cẩn, đem từ Liên Xô về một báu vật vô giá: lý thuyết âm tiết-hình vị (slogomorphema) của một trong những nền ngôn ngữ học ưu tú nhất của nhân loại, lý thuyết duy nhất có thể giải đáp được những vấn đề mà một ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt (và nhiều ngôn ngữ phương Đông khác) đặt ra cho ngôn ngữ học hiện đại và từ đó vạch ra một con đường đúng đắn để khắc phục chủ nghĩa “dĩ Âu vi trung (coi châu Âu là trung tâm)””... Sự kiện này đã được đa số các nhà nghiên cứu coi đó là một cái mốc, mang tính bước ngoặt, tạo nền móng để Việt ngữ học khẳng định vai trò thực sự của mình. Thông thạo và am hiểu Hán học, nắm vững tiếng Nga - một điển hình của ngôn ngữ biến hình - yêu văn học dân gian và văn học cổ, Nguyễn Tài Cẩn đã âm thầm làm việc và lần lượt công bố hàng loạt cuốn sách mà mỗi cuốn sách đều là một công trình nghiên cứu công phu và đặc biệt có giá trị: Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại (1975), Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng - từ ghép - đoản ngữ) (1975), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt (1979), Một số vấn đề về chữ Nôm (1985), Giáo trình lịch sử ngữ âm tiếng Việt (Sơ thảo, 1995), Tư liệu Truyện Kiều: Từ bản Duy Minh Thị đến bản Kiều Oánh Mậu (2004) v.v. Có thể nói năng lực làm việc của Nguyễn Tài Cẩn là đáng nể và sức sáng tạo của ông gần như là vô tận. Theo GS Đinh Văn Đức – một trong những học trò xuất sắc của Nguyễn Tài Cẩn, thì “Thành công liên tục trong học thuật của thầy tôi chính là ở chỗ ông có một phương pháp tư duy rất hiện đại và đúng đắn. Thầy nắm rất vững các nguồn lý luận ngôn ngữ học ở các bối cảnh lịch sử khác nhau. Mạnh dạn nhưng cẩn trọng, thầy đã ứng dụng có kết quả các lý thuyết ngữ học vào tư liệu bản ngữ, cả hiện đại và lịch sử, mở ra những ý tưởng rất mới...”.
Năm 2000, GS Nguyễn Tài Cẩn là nhà ngôn ngữ học đầu tiên nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh (về cụm công trình về “Các vấn đề Ngữ pháp và Lịch sử tiếng Việt”). Ông xứng đáng được đứng vào hàng ngũ các nhà khoa học xã hội ưu tú nhất của thời đại Hồ Chí Minh, như Trần Văn Giàu, Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Trần Đức Thảo... Đã tròn sáu thập nên kể từ năm 1960 đến nay, công lao “khai phá” cho Việt ngữ học đi đúng hướng của Nguyễn Tài Cẩn đã được khẳng định hết sức rõ ràng.
Sự nghiệp của GS Nguyễn Tài Cẩn gắn liền với một người phụ nữ Nga. Đó là GS Nonna Stankevich, người bạn đời và là đồng nghiệp không thể thiếu của ông. Từ một học trò, rồi thành vợ một trí thức Việt Nam nghèo khó, giản dị, bà trở thành một người Việt Nam “chính hiệu”. Bà Nonna theo ông về Hà Nội, lên tận Đại Từ - Thái Nguyên sơ tán tránh bom, trèo đèo lội suối, ăn rau rừng, dạy sinh viên trong rừng và nuôi hai cậu con trai Việt - Nam trưởng thành. GS Nguyễn Tài Cẩn “trả nghĩa” vợ bằng theo bà về Nga sống những năm cuối đời. Nhưng tấm lòng ông không ngừng hướng về Tổ quốc. Nhiều năm ông về Việt Nam tham gia các hoạt động khoa học và tiếp tục công bố các công trình lớn nhỏ “như chưa hề có sự chia xa”.
Song, trái tim đã đập liên tục hơn tám chục năm kia không thể đập mãi được. Năm ngoái, sau khi ở VN về, ông bị một cơn tai biến nhẹ. Và sức của “cánh chim bằng xứ Nghệ” đuối dần. Chồng sách dang dở cùng cặp kính bất ly thân kia đã rời ông. Rồi vào ngày 25-2-2011, một chiều Moskva lạnh giá, GS Nguyễn Tài Cẩn - được coi là người tiên phong soi đường chỉ lối cho Việt ngữ học - đã mãi mãi ra đi./.