Diễn đàn

Tại sao Trung Quốc muốn Biển Đông

Những gì Bắc Kinh quan tâm không chỉ là các nguồn năng lượng và hải sản. Khu vực này còn không thể thiếu đối với chiến lược tàu ngầm hạt nhân của Bắc Kinh.

Trong một nỗ lực nhấn mạnh tầm quan trọng của Biển Đông đối với châu Á, nhà địa chiến lược Nicholas Spykman từng mô tả đây là “Địa Trung Hải của châu Á”. Mới đây nhất, vùng biển này được gọi là “Caribbe của Trung Quốc”. Và cũng giống như Rome và Mỹ tìm kiếm sự kiểm soát đối với Địa Trung Hải và Caribbe, Trung Quốc giờ đây muốn thống trị Biển Đông.

 

Rõ ràng những tuyên bố và khẳng định gần đây của Trung Quốc đã làm gia tăng căng thẳng ở vùng biển quan trọng này. Tuy nhiên, trong khi hầu hết sự chú ý đổ dồn vào cơn khát các nguồn lực hải sản và năng lượng của Bắc Kinh thì xét về khía cạnh tàu ngầm, vùng biển này là không thể thiếu đối với chiến lược hạt nhân của Trung Quốc. Và nếu không hiểu rõ về mặt hạt nhân của những tranh chấp Biển Đông thì sự mở rộng hàng hải của Trung Quốc chẳng có nhiều ý nghĩa.

Sở hữu một lá chắn hạt nhân đáng tin cậy trên biển là một ưu tiên cho chiến lược quân sự của Trung Quốc. Chiếc Type 092 của Trung Quốc – tức tàu ngầm hạng Xia chạy bằng năng lượng hạt nhân và được trang bị các tên lửa đạn đạo tầm ngắn JL-1 – chưa bao giờ thực hiện một cuộc tuần tra ngăn chặn từ biển Bột Hải kể từ khi ra đời hồi thập niên 1980.

Tuy nhiên, Trung Quốc đang trên đà đạt được những năng lực đánh chặn hiệu quả với sự ra đời của tên lửa JL-2 SLBM (tầm bắn ước tính 8.000km), kết hợp với các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa DF-31 và DF-31A. Bên cạnh đó, Trung Quốc có kế hoạch ra mắt 5 tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo (SSBN) hạng Jin, tức Type 094, được trang bị các tên lửa JL-2, trong khi đang xây dựng một căn cứ tàu ngầm trên Đảo Hải Nam ở Biển Đông.

Vậy thì rõ ràng Trung Quốc đang tận dụng mọi nỗ lực để giữ Biển Đông ngoài những giới hạn, cũng như Liên Xô làm thế ở Biển Okhotsk thời Chiến tranh Lạnh. Khi đó, Liên Xô đã dùng các SSBN như một sự đảm bảo trước năng lực tiêu diệt các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) trên đất liền của Mỹ.

Sự cần thiết phải đạt được sức mạnh bảo đảm khỏi các cuộc tấn công cùng nhu cầu về một sự kiểm soát và chỉ huy hiệu quả có nghĩa là các SSBN của Liên Xô phải được triển khai ngay sát nước nhà, với các tên lửa tầm xa hơn sẽ được sử dụng để tấn công Mỹ.

Ngoài Biển Barents, Moscow ưu tiên biến Biển Okhotsk thành một nơi trú ẩn an toàn cho các SSBN bằng cách cải thiện các hàng rào phòng thủ vật lý của Đảo Kuril và tái củng cố Hạm đội Thái Bình Dương đóng ở Vladivostok. Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô đã triển khai 100 tàu ngầm, phối hợp với 140 tàu chiến trên mặt nước, trong đó có một tàu sân bay nhẹ hạng Kiev, để bảo vệ sức mạnh bảo đảm của mình ở Biển Okhotsk.

Tương tự như vậy, Trung Quốc cần phải bảo đảm cho các lực lượng của họ ở Biển Đông, đồng thời sửa đổi học thuyết và chiến lược hàng hải của mình sao cho phù hợp. Hiện nay, các sứ mệnh thời chiến chủ chốt của Hải quân Quân đội Giải phóng Nhân dân là: 1) đảm bảo các tuyến đường biển tới Đài Loan; 2) thực hiện các chiến dịch ở tây Thái Bình Dương để ngăn kẻ thù tự do hành động; 3) Bảo vệ các tuyến liên lạc đường biển của Trung Quốc; và 4) ngăn chặn các tuyến liên lạc đường biển của kẻ thù. Với sự ra đời của Type 094, việc bảo vệ các SSBN của Trung Quốc sẽ trở thành một nhiệm vụ quan trọng khác, và nhiệm vụ này đòi hỏi Trung Quốc phải tiêu diệt các lực lượng chống tàu ngầm chiến lược của kẻ địch và chấm dứt sự kháng cự của các bên tuyên bố chủ quyền khác ở Biển Đông. Các khả năng chống-tiếp cận/từ chối khu vực của Trung Quốc, đặc biệt là các tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân kín đáo hơn, có thể được sử dụng để chống lại các hoạt động chiến đấu chống tàu ngầm tiên tiến của kẻ địch. Các tàu sân bay của Trung Quốc, khi sẵn sàng hoạt động, sẽ được triển khai ở Biển Đông để các nước láng giềng tranh chấp Biển Đông phải im miệng.

Chiến lược này có từ gần 2 thập niên trước, thời điểm mà Trung Quốc bắt đầu bao vây Biển Đông để lấp đầy khoảng trồng quyền lực do việc Mỹ rút quân khỏi Philippines năm 1991 tạo ra. Trung Quốc lại lớn tiếng đưa ra các tuyên bố “lịch sử” về tất cả các đảo nhỏ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cùng 80% vùng biển rộng 3,5 triệu cây số vuông dọc theo đường lưỡi bò 9 đoạn, mặc dù không có cơ sở pháp lý quốc tế nào. Những quần đảo này có thể được sử dụng như các căn cứ trên biển và trên không cho hoạt động tình báo, giám sát và do thám, và được dùng như các vị trí cơ bản để nhận chủ quyền khu vực sâu hơn của Biển Đông cho kế hoạch về các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo và các loại tàu khác. Trung Quốc cũng giải thích Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) một cách độc đoán và không chấp nhận các hoạt động quân sự của tàu thuyền và máy bay nước ngoài ở Biển Đông.

Tuy nhiên, các nỗ lực nhằm thống trị Biển Đông của Trung Quốc đang đối mặt với nhiều thách thức lớn. Sự quyết đoán của nước này không chỉ làm dấy lên làn sóng phản đối từ các bên tuyên bố chủ quyền khác mà còn gia tăng lo ngại từ các nước như Mỹ, Nhật Bản, Australia và Ấn Độ. Sau tất cả, Biển Đông là một vùng biển quốc tế đã được công nhận, cũng như Biển Okhotsk. Bên cạnh đó, vì các tên lửa JL-2 từ Biển Đông không thể chạm tới Los Angeles, các tàu ngầm Type 094 cần phải tiến vào Biển Philippines, nơi Hải quân Mỹ và Lực lượng Phòng vệ hải quân Nhật Bản tổ chức các hoạt động chiến đấu chống tàu ngầm.

Để trấn an các bên tuyên bố chủ quyền, Trung Quốc đã tổ chức đối thoại và tham khảo ý kiến với họ từ những năm 1990. Một kết quả là Tuyên bố các bên về ứng xử trên biển Đông năm 2002, kêu gọi các giải pháp hòa bình thông qua đối thoại. Nhưng Trung Quốc không muốn ký kết vào một quy tắc ứng xử ràng buộc. Phản ứng trước những khẳng định mới đây của Trung Quốc, Việt Nam và Philippines đã thực hiện 5 cuộc tập bắn đạn thật ở các vùng tranh chấp, đồng thời tăng cường quan hệ với Mỹ, với một sự hiện diện của Mỹ được cả hai bên xem là sự ngăn cản rõ rệt nhất.

Về phần mình, Mỹ cũng tỏ rõ sự phản đối về quyết đoán của Trung Quốc tại nhiều diễn đàn khu vực khác nhau bằng cách nhấn mạnh lợi ích của Washington trong tự do hàng hải. Mới đây, Mỹ thông báo triển khai các tàu tác chiến gần bờ ở Singapore với hy vọng sự hiện diện của chúng sẽ tăng thêm hiệu quả ngăn cản Trung Quốc – cũng như Anh đã triển khai các tàu HMS Prince of Wales và HMS Repulse tại “Gibraltar của phương Đông” để ngăn chặn Đế quốc Nhật.

Mặt khác, do những tuyên bố quá thể của Trung Quốc dẫn đến những vụ việc như vụ máy bay do thám EP-3 năm 2001 và vụ tàu hải quân USS Impeccable năm 2009, Mỹ đang tìm kiếm một thỏa thuận về đụng chạm trên biển với Trung Quốc. Tuy thế, Trung Quốc không quan tâm đến những thứ như vậy vì nó sẽ biện hộ cho Mỹ tiếp tục hiện diện ở Biển Đông.

Ấn Độ là một bên quan trọng khác ở Biển Đông. Delhi được cho là sẽ sớm công bố tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo đầu tiên của mình, Arihant, và dự định chế tạo thêm hai tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo nữa với sự phát triển của các tên lửa phóng từ tàu ngầm (SLBM) K-4 tầm bắn xa hơn. Nhưng cho đến khi Ấn Độ phát triển thành công các SLBM tầm bắn xa hơn, các tàu ngầm của nước này sẽ cần phải hoạt động ở Biển Đông để nhắm tới Bắc Kinh.

Australia cũng lo ngại về những căng thẳng gia tăng trong khu vực. Sự bình ổn ở Đông Nam Á trên “các tuyến đường dẫn lên phía Bắc” được các nhà hoạch định chính sách coi là đặc biệt quan trọng vì một quốc gia thù địch có thể hướng sức mạnh vào Australia hoặc đe dọa các tuyến cung cấp năng lượng và thương mại đường thủy của nước này. Do vậy, Australia được cho là sẽ tăng cường sự hiện diện quân sự ở phía bắc đất nước trong khi cho phép quân đội Mỹ quyền tiếp cận lớn hơn với các căn cứ của mình.

Trong khi đó, Nhật Bản cũng có lợi ích chiến lược riêng của nước này ở Biển Đông, vùng biển quan trọng với 90% lượng dầu nhập khẩu của Nhật được vận chuyển qua đây. Hơn nữa, nếu Trung Quốc đạt được một khả năng đánh chặn trên biển bằng cách chế ngự Biển Đông thì nó sẽ làm suy yếu lòng tin vào khả năng ngăn chặn mở rộng của Mỹ.

Hồi tháng 12/2010, Nhật Bản công bố Các hướng dẫn Chương trình Quốc phòng của nước này, trong đó kêu gọi mở rộng các hoạt động ISR (thu thập tin tức, trinh sát, giám sát) dọc chuỗi đảo Ryuku và tăng cường hạm đội tàu ngầm. Trong cuộc họp 2+2 giữa Mỹ và Nhật Bản mới đây, Tokyo và Washington đã đưa việc duy trì an ninh hàng hải và tăng cường quan hệ với ASEAN, Australia, và Ấn Độ vào các mục tiêu chiến lược chung.

Tất cả những điều này có nghĩa là Trung Quốc đang phải đối mặt với một tình thế tiến thoái lưỡng nan ở “Okhotsk Trung Quốc”. Càng muốn chế ngự vùng biển quốc tế này, Trung Quốc càng chuốc thêm những thù địch. Để tránh làm xấu thêm tình hình, Trung Quốc nên thay đổi các tuyên bố về đường 9 đoạn một cách thích hợp với UNCLOS (và Mỹ cũng nên gia nhập UNCLOS ngay lập tức). Chừng nào Trung Quốc còn tiếp tục lối hành xử quyết đoán của mình, các láng giềng biển của nước này sẽ tăng cường hợp tác chiến lược với Mỹ, Ấn Độ, Australia và Nhật Bản để thiết lập một mạng lưới chiến đấu chống tàu ngầm khu vực.

Nhưng gánh nặng không chỉ dồn lên Trung Quốc – các nước khác trong khu vực cũng cần tìm kiếm sự hợp tác. Sự phát triển chung, có thể ở các vùng biển tranh chấp cần được theo đuổi, và mối đe dọa ngày càng nghiêm trọng về nạn hải tặc ở Biển Đông cho thấy một lĩnh vực khác mà các nước cần hợp tác với nhau.

Trong khi đó, các nước trong khu vực nên tiếp tục cuộc đối thoại của họ với Trung Quốc về an ninh biển ở những chốn như Diễn đàn Khu vực ASEAN và Hội nghị Đông Á.

Tất cả sẽ không dễ dàng nhưng bàn bạc thẳng thắn và triệt để về một quy tắc ứng xử sẽ tạo ra cơ hội tốt nhất để tránh xung đột vũ trang.

Người dịch: Trúc An

Nguồn: Diplomat(18-7-2011)/BS

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114449230

Hôm nay

2137

Hôm qua

2295

Tuần này

2775

Tháng này

215489

Tháng qua

120141

Tất cả

114449230