Bài tham luận này đặt lại lối nhìn nhân bản về công lý, và đề nghị hiểu trách nhiệm xã hội theo nghĩa nghĩa vụ tôn trọng con người nhân cách.
Tác giả xin bắt đầu tham luận với hai câu chuyện, một câu chuyện được Chúa Giê-su kể, và một câu chuyện của chính bản thân đức Khổng. Hai câu chuyện đều liên quan đến công lý, lòng chính trực và đến lối cư xử ngay phải của con người với nhau ở mọi thời và nơi mọi dân tộc. Tuy nhiên, câu chuyện thứ nhất nói lên nghĩa vụ con người, trong khi câu chuyện thứ hai diễn tả bổn phận của mỗi con người trong tư cách là một thành viên. Tinh thần của hai câu truyện khác hẳn với nền “công bằng” được áp dụng trong nền kinh tế thị trường hôm nay, một nền công bằng dựa trên lợi nhuận, và cách thế phân phát tiền công, bổng lộc, vân vân. Người viết xin được thay đổi vài chi tiết trong câu chuyện “Người Chủ Vườn Nho”[2] để phù hợp với xã hội nông nghiệp Việt như sau:
Một điền chủ tới mùa lúa chín cần thuê thợ gặt. Ông trả lương mỗi ngày năm mươi ngàn đồng Việt. Người nông dân thứ nhất tới xin việc từ sáng sớm, được chấp nhận theo hợp đồng. Người thứ hai, đến vào lúc 8 giờ sáng, được nhận. Và rồi người thứ ba tới lúc 9 giờ, người thứ tư tới lúc 10 giờ... tất cả cũng đều được nhận vào làm việc. Đến xế chiều, vẫn còn một người nông dân trẻ tới xin việc. Anh ta van xin “Xin bác thương giúp, vì cháu còn phải nuôi bố mẹ già và vợ con thơ.” Điền chủ động lòng thương và chấp nhận. Vào lúc phát lương, mọi người đều nhận được năm mươi ngàn đồng.như nhau. Thấy vậy, người tá điền tới đầu tiên khó chịu phàn nàn với điền chủ: “Tôi làm việc quần quật cả ngày, từ sáng tinh mơ đến tối, còn cái tên kia chỉ làm chưa tới một giờ, thế mà ông trả cùng đồng lương, thật bất công!” Điền chủ trả lời “Cái anh này sao kỳ vậy? Tôi theo đúng hợp đồng anh đã chấp nhận mà. Còn việc cho ai nhiều ít 1à vì tình người, đâu có liên quan gì đến hợp đồng giữa anh và tôi! Tôi đâu có bất công!”
Câu chuyện thứ hai, xem ra không liên quan gì đến nền kinh tế thị trường, nhưng thực chất liên quan đến chữ tín trong thương trường và nhất là đến điều mà tôi muốn chứng minh trong tham luận này, đó là tính chất con người nhân cách, tức con người nhận thức được bản chất của mình là con người trong xã hội qua việc hoàn thành bổn phận hay nhiệm vụ (duty) và trách nhiệm (responsibility). Nơi đây trách nhiệm, được hiểu như là điều mà mỗi người tùy theo vai trò, địa vị, tương quan trong xã hội, phải theo (respond), và bổn phận như là việc chu toàn vai trò của mình trong xã hội đó. Trong xã hội trách nhiệm, con người là mục đích chứ không phải là một công cụ. Vì là mục đích, con người mang bản chất tự chủ, có thể tự quyết chính định mệnh của mình, tự thăng tiến cũng như xác định chính những quy luật mà họ tuân thủ trong tự do tính của họ. Câu chuyện như sau:
Một hôm Diệp quận công gặp Khổng Tử, nói “Nước tôi có người công chính, biết bố mình trộm dê, anh ta ra tòa làm chứng tố cáo bố ăn trộm.” Khổng Tử trả lời, “Người nước tôi khác với người nước ngài, người bố dấu diếm tội cho con và người con thì che dấu tội bố mình. Đó mới thực là công chính.”[3]
1.1. Trách Nhiệm và Nhiệm Vụ
Thoạt nghe, hình như hai câu chuyện không liên quan nhiều lắm với mục đích của hội nghị chúng ta đề ra, đó là làm thế nào để giải quyết được nghịch lý giữa sự bất công tất yếu do bộ máy thị trường tạo ra và sự đòi buộc công bằng xã hội mà Kitô hữu đích thực, người theo chủ nghĩa xã hội chân chính, và bất cứ những người chính trực nào đều đeo đuổi. Tuy nhiên nếu chúng ta đào sâu hơn đi tìm ý nghĩa, hai câu chuyện trên đều liên quan rất mật thiết đến khái niệm công lý, công bằng mà chúng ta đương tranh luận ngày nay. Đặc biệt, câu chuyện của người điền chủ (người chủ vườn nho) có liên quan tới nghĩa vụ con người mà chúng tôi muốn bàn đến trong tiểu luận này. Người viết thiết nghĩ, hai câu chuyện có thể giúp ta tìm kiếm một giải đáp hữu hiệu và hợp lý hơn cho cái nghịch lý phát triển kinh tế (bất công là bản chất tất yếu), và công lý xã hội (đòi buộc bình đẳng và bình phân nơi mọi người). Đồng thời, hai câu chuyện trên cũng giúp lý giải trách nhiệm xã hội (social responsibility) theo nghĩa nghĩa vụ con người.
Hai câu chuyện nêu ra hai khái niệm khác nhau (mà chúng ta thường cho là đồng nghĩa), đó là trách nhiệm như là một nghĩa vụ, và trách nhiệm như là nhiệm vụ hay bổn phận. Sự khác biệt giũa nghĩa vụ (the duty of man) và nhiệm vụ (the duty of a citizen) hay bổn phận (the duty of a member of a society...) giúp chúng ta hiểu ra lý do tại sao trách nhiệm trong bất cứ một quy chế, xã hội, tổ chức nào đó, cho dù tiến bộ tới đâu, vẫn chưa có thể tạo ra một nền công lý hoàn hảo. Bởi vì, bổn phận của công dân có thể xung khắc với bổn phận của người làm cha, làm chổng. Tương tự, bổn phận công dân nước này có thể xung đột với bổn phận công dân một nước khác;[4] bổn phận tín đồ có thể xung khắc với bổn phận công dân;[5] bổn phận tín đồ trong giáo hội này có thể đi ngược lại với bổn phận tín đồ trong một tổ chức tôn giáo khác.[6] Và đây là điểm chính mà đức Khổng muốn nêu ra.
Quy luật xã hội (và thị trường) đòi buộc chúng ta phải có trách nhiệm vớí xã hội theo nghĩa nhiệm vụ phải “đáp trả” (response to)[7] lại cho xã hội và tha nhân những gì mà chúng ta được hưởng từ xã hội và tha nhân (hay từ cơ chế thị trường), thí dụ nhiệm vụ đóng thuế, thi hành nhiệm vụ công dân (mà chúng ta nhầm với nghĩa vụ).[8] Người chủ xí nghiệp có trách nhiệm với công nhân, phải chia sẻ lợi tức... với mọi nhân công của mình, trong khi người công nhân phải có trách nhiệm với xí nghiệp, với sản phẩm, vân vân, nơi người đó đương ăn lương. Trách nhiệm này dựa trên quy tắc xã hội và quy chế thị trường kiểu “hòn đất ném đi, hòn chì ném lại,” “có đi có lại mới toại lòng nhau,” tức là “song lợi” (có lợi cho cả hai bên). Chữ trách nhiệm gắn liền với chữ lợi: lợi lớn trách nhiệm nặng, lợi nhỏ trách nhiệm nhẹ; lợi rộng trách nhiệm nhiều, lợi hẹp trách nhiệm ít. Mỗi người, để có lợi cho mình, phải có trách nhiệm đóng góp sức lực, trí óc, tài năng. Tùy theo cái lợi lớn hay bé, nhiều hay ít mà người chủ phải có trách nhiệm to hay nhỏ, nặng hay nhẹ. Như vậy, trong xã hội tư bản ngày nay, “phuc vụ công nhân,” “phục vụ xã hội,” “giúp đỡ nông dân,” “chăm sóc phụ lão ấu nhi,” và ngay cả công việc chăm sóc sức khoẻ, trợ cấp xã hội, trợ cấp thất nghiệp, huấn nghệ, sinh đẻ, hôn nhân, lễ táng, vân vân, đều được hiểu và tổ chức theo nguyên lý trên. Giới chủ chăm sóc công nhân không phải là vì kính trọng công nhân là con người. Họ coi công nhân hay nhân viên như là công cụ ngang hàng với công cụ, hay nhiều khi dưới cả công cụ. Đối với họ, hiệu qủa lao động chứ không phải người công nhân mới quan trọng. Tùy theo hiệu qủa nhiều ít mà người chủ đối xử tốt hay xấu với công nhân. Thế nên dựa theo nguyên tắc “mồi to, cá lớn” hay “dây câu càng dài thì cá càng lớn” (đầu tư càng nhiều, lợi nhuận càng lớn), giới chủ nhân “chăm sóc” công nhân hay nhân viên của họ, thực tế là công việc bảo dưỡng sức lao động, giống y hệt công việc bảo trì công cụ, máy móc vậy. Đối với giới đầu tư, chăm sóc nhân công không phải vì người nhân công là một nhân cách y hệt như họ, nhưng là vì muốn có được lợi tức cao hơn, bền bỉ lâu dài hơn. Hệ thống xí nghiệp và lao công tại Nhật trong qúa khứ từng “chăm sóc” công nhân viên của họ như vậy. Ngược lại, công nhân viên gắn bó với xí nghiệp, tập đoàn hay cơ sở và với người chủ cũng chỉ nhằm mục đích “có lợi” hay “nhiều lợi” hơn như tiền thưởng, cấp dưỡng, đảm bảo tương lai, vân vân.
Tương tự, nhưng với một nền pháp luật chặt chẽ hơn, nhà nước có bổn phận phải “lo cho” dân, bởi lẽ người dân đóng góp công sức và của cải cho nhà nước. Nhà nước ý thức ra được (trừ nhà nước độc tài) sự tương quan song phương giữa người dân và nhà nước dựa trên cái lợi chung: không có dân thì cũng chẳng có nhà nước. “Dân vi trọng, quân vi khinh” (mà thầy Mạnh Tử chủ trương) không có nghĩa là nhà vua không quan trọng, hay người dân cao trọng, mà nên được hiểu theo nghĩa của mối lợi tương quan này.[9] Như vậy, ta có thể nói, trách nhiệm (nhiệm vụ, bổn phận) nơi đây dựa theo quy luật của chủ thuyết duy lợi, vụ lợi hay thực dụng. Theo quy luật này, không ai đòi buộc chúng ta phải đáp trả, (trả ơn, báo ơn, đáp ơn, đền ơn, hoặc ngược lại trả oán, báo oán...) hay giúp đỡ những “người dưng nước lã,” những người mà chúng ta không có quan hệ, chẳng ân chẳng oán, cũng chẳng lợi lộc gì. Không nhà nước nào có quyền bắt công dân nước khác, thậm chí ngay cả kiều bào, phải đóng thuế cho nhà nước này. Lý do rất đơn giản, người ngoại quốc và kiều bào đâu có được hưởng quyền lợi nào từ cái nhà nước ấy đâu.[10]
1.2. Trách Nhiệm và Nghĩa Vụ
Theo nguyên lý vụ lợi và đổi chác lợi lộc, người Đức chắc hẳn không có trách nhiệm (đừng nói đến nhiệm vụ hay bổn phận) đối với người Việt, và tổ chức Misereor không cần phải tốn bao công sức tới giúp người Việt nghèo đói.[11] Giáo hội Công giáo (và các tôn giáo khác) không cần phải hy sinh cho bệnh nhân AIDS, người phong, những người khốn cùng trong xã hội Việt ngày nay. Họ cũng không có động lực vụ lợi thúc đẩy họ. Họ có được lợi lộc gì đâu? Những công việc này lẽ ra phải thuộc về bổn phận của nhà nước, chứ đâu phải của họ.[12] Nếu hiểu trách nhiệm chỉ là nhiệm vụ đáp trả (the duty to respond), thì ta sẽ thấy những công việc bác ái, từ tế mang tính quốc tế không phải là công việc bắt buộc, và do vậy, chúng không thuộc về khái niệm nhiệm vụ, hay trách nhiệm theo nghĩa hẹp của bổn phận (trách nhiệm với gia đình, với người nào đó, v.v.).
Thế nhưng, biết bao tổ chức thiện nguyện quốc tế, rất nhiều tôn giáo đặc biệt các tổ chức thuộc Thiên Chúa giáo, đã tới giúp dân Việt và nhiều nước khác, một cách hoàn toàn vô vị lợi. Họ tự góp công, ra sức, bỏ của, thậm chí hy sinh cả sinh mệnh của họ để giúp tha nhân, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, văn hóa hay giới tính và tuổi tác. Những câu chuyện của các vĩ nhân như bác sĩ mục sư Albert Schweitzer ở Phi châu, Mẹ Theresa ở Ấn Độ, hay bác sĩ Tom Dooley, một Kitô hữu, ở Việt Nam và Lào... chỉ là những thí dụ nho nhỏ trong muôn vàn thí dụ khác. Tương tự những tổ chức thiện nguyện[13] làm việc nghĩa không phải vì nhiệm vụ của họ đối với dân ta, nhưng là vì nghĩa vụ con người.[14] Họ không có trách nhiệm gì đối với sự cơ cực của dân ta, và dĩ nhiên chẳng có bổn phận phải giúp chúng ta. Ngược lại, chính người Việt chúng ta, những người được hưởng lợi trong cái mảnh đất của mình, được truyền lại từ tay tổ tiên của mình mới là người phải chịu trách nhiệm về chính mình.[15]
Vậy nên, ta có thể nói, nghĩa vụ được xây dựng trên một nền tảng siêu hình khác hẳn với vụ lợi, duy lợi hay thực dụng. Ta tạm gọi nền tảng siêu hình này là nền nhân bản toàn diện.[16] Nghĩa vụ nói lên bổn phận của con người đối với con người đồng loại, trong khi trách nhiệm nói lên bổn phận của ta đối với quê cha đất tổ, người đồng hội đông thuyền, gia quyến, tố chức, xã hội, v.v.. Và lẽ dĩ nhiên, ta cũng phải có bổn phận với cha mẹ, tôn sư, với Trời và Đất. Nghĩa vụ không bao hàm, cũng không đòi hỏi sự đáp trả. Triết gia Kant gọi nghĩa vụ là một mệnh lệnh tuyệt đối (hay mệnh lệnh mang tính chất phạm trù, categorical imperative). Nó không đưọc dựa trên bất cứ mục đích ngoại tại nào như lợi ích, tình cảm, hay ngay cả niềm tin tôn giáo. Mục đích của nghĩa vụ phải nội hàm trong chính nghĩa vụ, và phương cách của nghĩa vụ phải đồng nhất với chính mục đích của nó.
1.3. Bản Chất của Nghĩa Vụ
Theo và đi xa hơn triết gia Kant, chúng ta có thể nói, nghĩa vụ con người được xây dựng trên chính bản chất con người (human nature), trên đồng cảm (sensus communis), tức tình cảm chung cấu tạo bản chất con người, trên tình thương, coi con người như chính là mục đích tối hậu,[17] và nhất là coi mỗi người như là một sinh vật mang tính chất hữu sinh, tự do thăng tiến, vươn tới hoàn thiện. Một nghĩa vụ như vậy đã từng lảm nền tảng cho nền văn minh nhân loại. Yếu tính của đạo Thiên Chúa chính là tình yêu bao la “yêu tha nhân như chính mình,” trong khi yếu tinh của đạo Phật là cứu nhân độ thế. Mầu nhiệm nhập thể của đức Kitô, lịch sử cứu độ, cũng như sự hy sinh chính mình cho nhân loại, sẽ không thể hiểu được nếu ta chỉ hiểu con người theo góc độ lợi tức, coi con người như là một công cụ, một phương thế mà quên đi tính chủ thể của mỗi người trong chúng ta. Tương tự, nền tảng giúp con người giác ngộ thành Phật, chính là tình yêu bao dung “từ bi hỉ xả.” Đức Phật Quan Âm biểu hiện Phật tính qua con đường hy sinh chính bản thân cho tha nhân. Đức Khổng cũng có lối nghĩ như vậy khi ngài xây dựng một hệ thống nhân bản dựa trên hiếu, trung, nghĩa, lễ... mà những đức tính này đều được xây dựng trên nền tảng bản chất con người, tức đạo Nhân.[18] Đạo nhân được xây dựng trên nguyên lý con người đồng tính: “Điều mà mình không muốn người khác làm cho mình, thì đối với người khác cũng đừng làm như vậy...”.[19] Đạo quân tử của ngài là đạo vô vị lợi, đạo của tình yêu (cha mẹ, anh em (hiếu đễ), đạo của nghĩa vụ v.v...[20] Nói chung, đó là đạo làm người.[21]
Những nền đạo lý vĩnh hằng trên chỉ ra một chân lý, đó là, ta chỉ có thể hiểu được ý nghĩa thực sự của trách nhiệm xã hội từ quan niệm nghĩa vụ đối với chính con người với và trong tư cách là con người. Nghĩa vụ được xây trên tình người, trên lý tưởng siêu việt, trên nền tảng siêu hình của con người nhân cách, tức con người biết mình, biết tôn trọng mình, biết tự chủ, biết nhận ra trong tha nhân những đặc tính đó. Như vậy, biểu hiện của trách nhiệm xã hội chính là sự tôn trọng (respect) chính mình, và tôn trọng lẫn nhau (mutual respect). Ta giúp đỡ, săn sóc, hay yêu tha nhân không phải vì họ đáng yêu (như trường hợp ta chăm nom gia súc nuôi làm cảnh), nhưng là vì tha nhân cũng như chính chúng ta là những con người có nhân cách. Lòng kính trọng phải được đặt trên nhân cách chứ không phải trên tình cảm hay vì mục đích lợi ích.
Từ đây, ta có thể hiểu được, qua câu truyện trên, đối với Chúa Giê-su, công lý, phân phối công bằng, vân vân, phải được xây dựng trên tình người chứ không trên số lượng, phẩm chất của sản phẩm, số lượng của giờ lao động, hay quy luật của thị trường, và lợi nhuận. Đối với đức Khổng, công bằng chính trực không thể được tính toán bởi quy luật “khách quan,” hay bởi bất cứ sinh hoạt nào hoàn toàn tách biệt khỏi sự tương quan giữa con người, nhưng phải được dựa trên đạo nhân. Người quân tử không vụ lợi mà vụ nghĩa, không xét hậu qủa, mà theo nguyên tắc, không xu thời, mà luôn theo đạo của Trời và của con người. Nói cách chung, quan niệm của hai ngài về công lý, chính trực đi ngược lại với những nguyên lý duy lợi (utilitarianism), vụ thực (pragmatism), hay duy hiệu qủa (consequentialism), tức những lí thuyết nền tảng đàng sau chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa tự do (liberalism) và tân tự do (neo-liberalism).
Điểm mà chúng tôi muốn đặt ra nơi đây đó là quan niệm về công lý của các ngài có thể đóng góp gì để giải quyết vấn nạn bất công phát sinh từ nền kinh tế thị trường, nhưng đồng lúc vẫn có thể tác động khiến kinh tế phát triển hay không. Đây là một vấn nạn mà chủ thuyết xã hội đương phải đối diện, đó là làm thế nào để phát triển kinh tế trong thế giới toàn cầu ngày nay, một thế giới bị thị trường chi phối, mà vẫn không phản bội lại nguyên lý công bằng mà chủ nghĩa xã hội lấy làm nền tảng.
2. CON NGƯỜI NHÂN CÁCH
Trong chú thich về chủ thuyết nhân bản toàn diện (integral humanism) của Maritain, người viết chỉ nêu lên những đặc tính căn bản của con người nhân cách nhu tính trung thực, tính sáng tạo, tính thực tiễn, tính liên đới xã hội, tính tự chủ (tự do), tính siêu việt hay thăng tiến. Thay vì phân tích những đặc tính trên, chúng tôi theo lối tiếp cận phê phán mà giới triết học thường áp dụng, đó là phê phán xã hội và phê phán thẩm mỹ, với mục đích tìm lại con người nhân cách.
2.1. Phê Phán Xã Hội và Cuộc Tìm Kiếm Con Người Nhân Cách
Lối phê phán và xây dựng từng được Socrates phát triển, và được Newton áp dụng vào trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, cũng như được Marx, và gần đây Karl Popper dùng trong khoa học xã hội.[22]
Phê phán xã hội bao gồm hai loại, phê phán mang tính chất tiêu cực và phê phán mang tính chất tích cực. Lối phê phán tiêu cực dựa trên phán đoán thẩm mỹ học cho rằng cái đẹp phải là cái hoàn toàn. Mà đã là hoàn toàn thì không thể thiếu sót, và cũng không thể không theo đúng với những gì mà nó phải có (tất yếu tính), và hợp với bản chất phổ quát của nó (phổ quát tính). Thế nên, công việc phê phán xã hội hay con người xã hội bắt đầu với việc tìm kiếm những khiếm khuyết khiến con người không là người, hay chưa thành người, hay là con người thiếu sót, v.v..[23] Marx và những triết gia theo chủ trương phê phán áp dụng lối phê phán này để nhìn con người trong thể chế tư bản, hay trong chế độ phong kiến. Khi đi tìm gỉai đáp cho câu hỏi “con người là gì?” họ đã nhận ra tính chất phi nhân trong chế độ phong kiến (người nô lệ, phụ nữ, những sắc dân thiểu số, v.v. không được công nhận và đối xử như con người), tính chất bất nhân trong chế độ tư bản (người lao động bị bóc lột, và hạ cấp xuống hàng công cụ), tính chất vô nhân trong cơ chế thị trường (con người chỉ là những sản phẩm, hàng hóa). Từ đây Marx đi tìm nguyên nhân cũng như những yếu tố, điều kiện chính trị, xã hội, kinh tế, và ý hệ cản ngăn, hay khiến con người không có thể trở thành con người người đích thực. Chính vì vậy mà họ phân tích những biểu hiện tiêu cực, những thiếu sót, tức là những yếu tố, những điều kiện cót lõi khiến con người chưa phải, không phải, và không bao giờ là con người đích thực.
Trong Bản Thảo Chính Trị Kinh Tế viết vào năm 1844 (còn được gọi là Bản Thảo Paris),[24] Marx nhận định về nguyên nhân chính làm con người khốn cực, đó chính là bi kịch con người chưa nhận ra mình là người; đó là cấu trúc xã hội cố định coi con người chỉ là những phụ tùng nho nhỏ trong bộ máy xã hội vận hành một cách máy móc. Mà cơ cấu xã hội như vậy bao gồm những điều kiện kinh tế xác định con người chỉ là món hàng giao dịch (commodity); những điều kiện chính trị khiến con người không thể tự chủ, mà chỉ là những công cụ trong tay giới lãnh đạo; và những điều kiện ý hệ xác quyết và hạn chế con người, hay phủ định con người.
Trong tập sách mang tính cách sơ thảo này, Marx dùng thuật ngữ “dị hóa” (Entfremdung) để nói lên những nguyên nhân căn bản, cơ cấu khiến con người không thể là con người thực sự. Theo Marx, qúa trình lịch sử con người dị hóa bắt đầu với sự tương giao lộn ngược giữa chủ thể và đối thể (đối tượng). Trong qúa trình sản xuất, đồ sản xuất như hiện kim (Geld), hiện vật (Ding), tư bản (Kapital), sản phẩm (Produkt), vật gía trị (Wert), v.v., tức là những đối vật được chính con người tạo ra, bây giờ tiếm chỗ chủ thể và đẩy chủ thể xuống hàng đối vật (công cụ). Tương tự trong tương giao xã hội con người, mỗi chủ thể bây giờ chỉ còn là những đối tượng cho sinh hoạt thương mãi mà mục đích không phải là con người mà gía trị thặng dư (Mehrwert). Tương tự, trong tương giao với nhà nước, thần thánh, vân vân, con người bị hạ thấp xuống thành hàng công cụ, phương tiện hay đối tượng được sử dụng. Giá trị của con người được xác định bởi một thị trường vô tâm, bởi ngưởi chủ vô nhân, và bởi những sản phẩm được thị trường phi nhân quyết định giá cả. Nói cách khác, con người còn kém gía trị hơn chính những sản phẩm mình từng sản sinh ra. Ngược ngạo thay, chính sản phẩm do con người sản xuất lại định đoạt gía trị của họ. Theo Marx, con người cùng lúc vong thân (đánh mất ý thức về chính mình, Entaeusserung), dị hóa (cho mình chỉ là một ai khác, cái gì khác, hay coi thần tượng mới là chủ thể, Entfremdung), và vật hóa (bị coi như là hàng hóa, đồ vật, dụng cụ, sản phẩm, Verdinglichung).[25] Qúa trình vong thân, dị hoá, và vật hóa chính là qúa trình con người đánh mất chính mình, tức con người nhân cách. Con người dị hóa chỉ còn là một con người vô hồn (thiếu tự thức), nô lệ (mất tự chủ), vô thức (thiếu ý thức về khả năng và lực của mình). Nói cách khác, đó là một con ngưòi vô nhân cách. Hiển nhiên là Marx tuy không nói đến con người nhân cách, toàn diện như những tríết gia Kitô giáo, nhưng ông cũng đã có ý tưởng tương tự như thế. Con người toàn vẹn của Marx là con người không bị dị hóa, không thể biến thành một đồ vật (không bị vật hóa), và con người tự thức (không vong thân). Đó chính là con người tự do, tự chủ, tự quyết định vận mệnh, ý thức về năng lực (sức lao động) và về mục đích của cuộc sống của mình. Từ một định đề như vậy, Marx cho rằng, con người cá nhân -- hay là một cá nhân trừu tượng (abstrakte Individuen) mà mục đích là tư lợi --, giai cấp tư sản (bourgeoisie) -- mà mục đích là duy lợi -- không bao giớ có thể trở thành một con người nhân cách như vậy. Đây là lý do triết gia nghĩ chỉ có một cuộc cách mạng triệt để, thay đổi tận gốc cấu trúc xã hội, đánh đổ lối tư duy tư sản, sản xuất tư bản và tạo ra ý thức của giai cấp tuyệt đối,[26] thì lúc bấy giờ ta mới có hy vọng giúp con người trở thành một con người nhân cách. Trong một xã hội con người nhân cách, chế độ phi nhân bản (như tư bản) sẽ tự xụp đổ.[27]
2.2. Phê Phán Thẩm Mỹ và Cuộc Tìm Kiếm Con Người Nhân Cách
Đi xa hơn lối phê phán xã hội, đó là phê phán thẩm mỹ. Phê phán thẩm mỹ bắt đầu với những phê phán tiêu cực (như đã trình bầy ở phần trên), nhưng kết thúc với tính cách tích cực hơn. Dựa trên nền tảng siêu hình của thẩm mỹ học, phê phán tích cực đặt ra câu hỏi là làm thế nào để có thể đạt tới được cái mục tiêu tối hậu, đó là con người hoàn hảo. Do đó, thay vì phá đổ (cách mạng), ta phải xây dựng. Câu hỏi quan trọng bây giờ là “xây dựng như thế nào?”. Câu hỏi này bắt buộc ta phải đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi tiếp theo về mục đích và phương thế, về nền tảng siêu hình cũng như về khả thể của một xã hội hay thế giới lý tưởng.
Ta bắt đầu với cảm giác. Nhìn một sự vật, một con người, hay một xã hội, ta có cảm giác sợ hãi, khó chịu, dễ chịu hay sung sướng vì nhiều lý do. Nhưng cảm giác đầu tiên đều từ chính hình thể, mùi vị, âm thanh của đối tượng ta nhìn, hay nghe, hay cảm nhận. Sau đó tới hành vi, ngôn ngữ, vân vân. Như vậy, ta có thế nói:
2) Thứ tới, nều chúng không phù hợp (vượt quá, to qúa hay nhỏ quá... ) với bản chất cơ bản cũng là chúng ta khó chịu, không thích. Một người mà mặt mũi không lành lặn làm ta không dám tiếp xúc; mặt mũi bất bình thường (qúa to, qúa nhỏ, hay không cân đối) làm ta không thích, và nếu bất thường nghịch lại với bản chất thì làm chúng ta ghê sợ. Một âm thanh qúa lớn, hỗn độn ta không thích cho là ồn ào; một mầu sắc qúa nhạt ta cho là nhạt nhẽo lu mờ, qúa sắc ta cảm thấy chóng mặt; một mùi vị qúa sức chịu đựng ta cho là nồng, thối, khắm, hôi, v.v.
Phê Phán Tích Cực
Từ một ví dụ về toán học trên, Plato đi tìm một con người hoàn hảo. Theo ông, con người đích thực là con người ý thức được bản chất hướng về hoàn thiện của mình, và do vậy luôn cố gắng thăng tiến tới giai đoạn viên mãn này. Đó là giai đoạn mà con người không có thể hoàn hảo hơn được nữa.[28] Lối phê phán này mang tính chất tích cực bởi lẽ nó không dừng lại nơi những thiếu sót (chưa phải, không phải, hay còn khiềm khuyết), hay những điều kiện, cơ cấu, ảnh hưởng tạo ra thiếu sót, mà còn nỗ lực đi tìm bản chất hoàn thiện và phương thế để đạt tới giai đoạn hoàn thiện. Từ đây ta mới hiểu được những yếu tính, những động lực, những điều kiện, những nguyên nhân khiến con người luôn khao khát, đi tìm, và không ngừng cải thiện cuộc sống để trở lên hoàn hảo. Trở lên hoàn hảo có nghĩa là tìm lại được bản chất uyên nguyên đích thực của con người. Plato, đức Khổng, đức Phật và đức Kitô đều có lối nhìn như vậy. Các ngài cho rằng, nền tảng của con người cũng là mục đích của con người, đó là một con người hoàn hảo trong một thế giới toàn mỹ. Đây chính là động lực và là mục đích tối hậu khiến con người thăng tiến (hay nói theo Hegel, khiến con người thăng hoa, aufgehoben).[29] Nói một cách cụ thể, lối nhìn siêu hình thẩm mỹ tương đồng với cái nhìn xa rộng của nhà toán học, đặc biệt hình học. Họ nhìn ra sự vật, sự kiện nới rộng, vươn cao trong không gian vô tận. Lối nhìn này được Maritain và các nhà tư tưởng Kitô giáo chia sẻ. Họ nhìn con người như là một Hữu sinh (Esse, Being) chứ không chỉ là vật thể mang một thể cách nào đó (tức là hữu thể. Ens, being). Hữu sinh luôn sản sinh, phát triển qua những thể khác biệt, thúc dục bởi động lực và được hướng dẫn bởi mục đích tối hậu, đó là trở thành một hữu thể hoàn hảo (ens entissimum, ens perfectum), hay là con người hoàn hảo. Thành Phật (trong Phật giáo), thành Thánh (trong Khổng giáo), hay trở thành gần như chính Thiên Chúa, đấng Tạo Hóa (imago Dei) tức là tìm lại được bản chất uyên nguyên của con người. Khát vọng của con người do đó được thúc đẩy bởi động lực, và được lý trí hướng dẫn tới mục đích hoàn thiện đã tác động trên con người.[30] Và trong tự do của mình, con người dùng nghị lực, lao động, và trí khôn xây dựng con người đích thực. Lịch sử nhân loại, do đó, là một lịch sử tiến hóa không ngừng, nhưng luôn hướng về mục đích tối hậu, đó là con người đích thực trong một xã hội đích thực. Về điểm này, chúng ta thấy một sự tương đồng giữa những tríết gia lý tưởng (mà ta gọi là duy tâm hay duy ý), những nhà tư tưởng Kitô giáo và những người theo chủ nghĩa xã hội như Marx.[31] Từ đây ta có thể nói, con người nhân cách là con người nhận ra rằng mình phải thăng tiến tới giai đoạn toàn vẹn, giai đoạn mang tính chất mà đấng Tạo Hóa phú cho: tự tại, tự chủ, tự tạo, và tự hoàn tất chính mình.
2.3. Con Người là Chủ Thể hay Thị Trường là Chủ Thể?
Từ hai lối nhìn trên về con người nhân cách, chúng ta nhìn lại vai trò của con người trong cơ chế thị trường ngày nay.
Từ những nhận định trên, ta thấy, cho dù với lý do gì đi nữa, thì vai trò chính làm thị trường lành mạnh vẫn là yếu tố con người. Phần sau đây muốn chứng minh một điểm, đó là, một khi con người đánh mất chính mình, hay bị đánh mất, thì thị trường tự nó rất dễ bị khủng hoảng. Thế giới thị trường tư bản luôn ở trong tình trạng bấp bênh, bởi vì chính nó đã phá hủy giá trị chủ động, vai trò chủ thể của con người và giao quyền định đoạt vận mệnh cho một thiểu số tài phiệt cũng như thị trường, một bộ máy vô tâm, vô tính, phi nhân do chính nhóm tài phiệt tạo ra. Vậy nên, khôi phục lại con người nhân cách phải là điều kiện tất yếu để khôi phục lại tính chủ động của con người, và làm cho thị trường lành mạnh trở thành môi trường phục vụ hạnh phúc con người.
2.4. Siêu Việt hay Thăng Tiến - Bản chất của Nhân Cách
Ưu tư của con người là ưu lự về chính mình. Và như thế, tự cổ tới kim, tự Đông sang Tây, câu hỏi căn bản nhất làm nền tảng cho mọi nền khoa học (Homer, Aristotle, Kant, Wilhelm Dilthey, Heidegger) vẫn là câu hỏi “con người là gì?”. Từ thời Hy lạp, con người được biết như là một sinh vật lý trí, cho tới tời Phục Hưng con người đòi hỏi quyền tự do sáng tạo từng dành riêng cho Thuợng Đế; rồi đến thời Khai Sáng, con người nhận ra vai trò chủ thể tự làm chủ dựa vào chính năng lực lý tính của mình. Nhưng, tất cả quá trình đi tìm chính mình không phải luôn thành công. Cùng với thao thức đi tìm chính mình, là quá trình tự tha hóa. Lịch sử con người luôn mang hai mặt, làm chủ và làm nô.[34] Thế nên, vào thời đại con người tưởng đã làm chủ vũ trụ thì chính họ lại chấp nhận tự biến đổi thành một sinh vật tiêu thụ trong chính cái thị trường họ tạo ra.
Bản chất thăng tiến hay siêu việt vốn là một động lực thúc đẩy con người luôn biến động và vươn lên không ngừng, vượt khỏi tình trạng hiện sinh, và vươn lên một cuộc sống mới, và cứ như thế hướng về một cuộc sống tuyệt đối. Chính bản chất siêu việt này làm bất cứ nhận thức nào về con người như là một vật thể bất động, bất biến đều chỉ là một nhận thức không đầy đủ. Chấp nhận con người thăng tiến do đó đi ngược lại với lối nhìn duy vật thô thiển (vulgaire materialism),[35] hay lối nhìn duy thương (mercantilism). Và như vậy, chúng ta không thể coi con người như đồ vật, dụng cụ, hàng hóa, tư bản hay tiền tệ. Tất cả đồ vật, dụng cụ, thậm chí tư bản, tiền tệ chỉ là những sản phẩm được con người thăng tiến chế tạo ra. Chúng chính là những dấu ấn phản ánh bản chất thăng hoa, thăng tiến của con người. Chúng không phải là mục đích của thăng tiến, càng không phải là mục đích của con người. Mục đích của thăng tiến phải là chính con người sáng tạo và nhân cách.
2.5. Tính Chất Phi Nhân Cách của Cơ Chế Thị Trường
Một khi chấp nhận bản chất siêu việt đòi buộc ta phải nhận ra con người vưọt khỏi thế giới động vật và sự vật. Lý trí, thẩm mỹ, khát vọng, hưởng thụ... nói lên những tính chất căn bản nhất của con người thăng tiến, những tính chất mà ta không thấy nơi giới động vật khác. Hoặc nếu có một vài loại sinh vật gần con người, thì chúng vẫn còn bị hạn chế. Thí dụ trong lãnh vực sáng tạo và hưởng thụ, (ta thấy) động vật thiếu sáng tạo, và thiếu ý niệm hưởng thụ. Lý do, như đã nói trên, bản chất siêu việt chỉ thấy nơi loài người (và thần linh, theo con người hiểu). Chính bản chất siêu việt này, cộng với tự do tính, tự chủ tính, và lý tính làm nên con người nhân cách. Một con người nhân cách là một con người ý thức được tự do tính, tự quyết, tự chủ của mình, đồng thời nhận ra được mục đích thăng tiến là con người viên mãn, và tìm ra những phương thế hữu hiệu để có thể đạt tới mục đích trên.
Từ sự xác tín vào bản chất siêu việt của con người, chúng tôi phê phán những chủ thuyết nền tảng của nền kinh tế thị trường như chủ thuyết vụ lợi, duy lợi và công lợi (utilitarianism), và phần nào đó, chủ thuyết thực dụng và duy dụng (pragmatism), Những chủ thuyết này chỉ nhìn ra con người vụ lợi với những ước muốn thoả mãn nhu cầu hiện tại nên không để ý tới bản chất siêu việt, thăng hóa. Chính vì vậy mà nền công lý mà họ đưa ra chỉ là những cách thế phân phát lợi tức, nhu cầu hiện tại, và luôn theo nguyên lý vụ lợi, tức là có lợi cho họ[36] Pháp luật, quy chế, tập tục tự xưng là những hình thức của công lý, trên thực tế chỉ là những phương thế do giai cấp thống trị nghĩ và xếp đặt, dùng để áp đặt trên đầu người dân. Nền pháp luật, quy chế như vậy, lẽ dĩ nhiên, luôn luôn mang lại lợi nhuận cho giới quyền hành. Tập đoàn AIG vỡ nợ, được nhà nước Mỹ trợ cấp với số tiền thuế của người dân, nhưng họ lại tự phân phát phần thưởng mỡ màng cho chính những kẻ làm tập đoàn này phá sản. Và họ nhân danh pháp luật (mà họ đã tự lập ra) để làm một chuyện phi lý, phi nhân như vậy. Nhìn từ thực tế này, ta có thể hiểu tại sao một nền công lý xây trên nền tảng vụ lợi không thể là một nền công lý phổ quát. Nó bị hạn hẹp và chế tài bởi nhu cầu, cách thế sống, những ước muốn (giả tạo), và nền pháp luật hiện tại (vốn được xây dựng trên nguyên lý vụ lợi). Khi mà cấu trúc căn bản của xã hội và giai cấp đã cố định, và được xây dựng trên nguyên lý vụ lợi và duy lợi, thì công bình, công lý chỉ còn là những lời hùng biện trống rỗng của nhóm tài phiệt và giới quyền lực, nhưng chẳng ai tin, và cũng chẳng được (mấy) ai thực thi.
Một nền công lý như vậy cùng lắm thì cũng chỉ là một nền công bình mang tính cách tương đối (fairness)[37] mà tôi tạm gọi là sòng phẳng, có tính chất nhất thời, được chấp nhận cho một xã hội có cùng sinh hoạt, ở vào cùng một giai đoạn hay một xã hội nào đó, và cùng một giai cấp mà thôi. Nhưng, làm sao kiếm ra được một xã hội thuần nhất và đồng tính như vậy? Đó là một xã hội không hiện thực (như lịch sử đã chứng minh), và như vậy nền công bẳng được cho là xây dựng trên đồng thuận có lẽ chỉ có trên lý thuyết mà thôi.[38] Điểm mà chúng tôi muốn nhấn mạnh nơi đây, đó là nền công bình này không thể hiện thực bởi vì tự bản chất mâu thuẫn của nó. Nguyên lý tự do tối đa trong việc mưu lợi tạo ra tự do cạnh tranh, và nguyên lý coi lợi tức như là mục đích tối hậu, tự chúng đòi hỏi một sự bất quân bình. Ta khó có thể có được một nền công bình (cho rằng tương đối) nếu dựa trên chính sự đa tạp của xã hội, đa hóa của giai cấp và sự bất bình đẳng của con người, cũng như của lao động. Chính vì vậy mà công lý là một quan niệm bị lạm dụng nhiều nhất.[39] Hàng lãnh đạo, giai cấp quyền thế, giới tài phiệt với quyền lực và đồng tiền trong tay, sẽ giải thích và thiết lập một hệ thống công bình có lợi cho họ, trong khi bá chúng bắt buộc phải chấp nhận loại “công bình” bất lợi này. Người dân thấp cổ bé miệng sẽ tự ru ngủ với một loại công bình mai sau, hay sẵn sàng mãn nguyện với những mối lợi thiển cận giới lãnh đạo ban phát cho họ,[40] hay do giới sản xuất nghĩ ra và quảng cáo.
Như vậy, ta có thể nói, tham vọng xây dựng một nền công bình mang tính chất phổ quát, không phân biệt cá nhân, khát vọng, nhu cầu và chính khả năng của mỗi người (như chủ thuyết xã hội đương đeo đuổi) cũng khó có thể thực hiện, nếu vẫn còn dựa trên chủ thuyết duy lợi. Thực tế cho thấy, đó là một lý tưởng hơn là một nguyên lý phát xuất từ chính cuộc sống con người. Điểm yếu của nền chân lý phổ quát nhưng dựa trên lợi tức, đó là không ai có thể nắm vững được bản chất của lợi tức, cũng như những ước muốn vô hạn chế của con người.
Thứ tới, một nền công bằng như vậy khó có thể được phổ quát hóa cho toàn nhân loại và áp dụng cho mọi thời. Nó càng không thể thỏa mãn được khát vọng vươn lên, tiến xa của con người. Và để tạo một xã hội quân bình nhân tạo (gỉa tạo), chủ trương thuyết duy lợi bắt buộc phải tạo ra một thế giới đơn phương, đơn chiều với những lợi ích vật chất, những mục đích tạm bợ, chỉ mang giá trị hạn hẹp, và ru ngủ con người bằng những chiêu bải như vậy.[41]
Kết Luận
Qua phân tích về sự khác biệt giữa nhiệm vụ và nghĩa vụ, về tính chất máy móc vô nhân của cơ chế thị trường cũng như dựa trên phê phán xã hội và thẩm mỹ học về con người, chúng ta có thể đi tới những nhận định sau:
Thứ nhất, bất cứ một sinh hoạt nào đều là sinh hoạt con người. Do đó, sinh hoạt kinh tế (tài chính) cũng chỉ là một sinh hoạt con người. Mục đích của nó chính là con người. Như vậy, nó không được tách rời khỏi con người. Ngược lại, nó phải được xây dựng trên nền tảng con người.
Chính tính nhân cách này cho ta thấy, con người luôn mang hai loại trách nhiệm, trách nhiệm chung trong một cộng đồng trong tư cách của công dân, tín đồ, thành viên hay “đồng” tộc, đồng bạn, đồng nghiệp, vân vân, mà ta gọi là bổn phận, nhiệm vụ và trách nhiệm con người trong tư cách là con người mang tính cách toàn diện, mà ta gọi là nghĩa vụ. Con người nhân cách, như đã nói trên, phải là con người mang tính cách toàn diện, và như vây, luôn có hai loại trách nhiệm, đó là bổn phận của một thành viên, và nghĩa vụ con người. Thực thi nghĩa vụ con người, hoàn tất bổn phận thành viên là cách thế biểu hiện con người nhân cách. Chỉ với tư cách của con người nhân cách, ta mới hòa hợp được bổn phân công dân và nghĩa vụ con người. Tương tự, chỉ có nghĩa vụ mới có thể vượt trên những sự khác biệt, thậm chí xung khắc, giữa những nhiệm vụ khác biệt, thí dụ bổn phận của thành viên trong gia đình và công dân một nước, bổn phận của công dân Việt với nhiệm vụ của tín đồ Kitô giáo, vân vân. Và bây giờ chúng ta hiểu được tại sao những tổ chức như Misereor..., những con người khác chủng tộc, tôn giáo, thậm chí từng thù nghịch trong qúa khứ (như người Tầu và người Việt, người Mỹ và người Việt, người Pháp và người Việt, hay người Việt và người Chàm, người
282
2292
21315
219343
1114325557
114549021