Ý nghĩ rất quan trọng này đã là khởi đầu của việc cơ giới hóa sản xuất hàng dệt. Lee đã trở nên bị ám ảnh với việc làm ra một chiếc máy mà sẽ giải phóng con người khỏi việc đan bằng tay không bao giờ ngớt. Ông nhớ lại, “tôi đã bắt đầu sao lãng các nghĩa với Nhà thờ và gia đình. Ý tưởng về chiếc máy của tôi và việc tạo ra nó đã chiếm hết tâm trí và trái tim tôi.”
Cuối cùng, vào năm 1589, “khung dệt kim” máy dệt kim của ông đã xong. Ông đi London với sự hứng khởi xin một cuộc yết kiến với Elizabeth I để giới thiệu với bà chiếc máy hữu ích đến thế nào và yêu cầu bà cấp cho một bằng sáng chế mà sẽ ngăn những người khác sao chép thiết kế của ông. Ông đã thuê một tòa nhà để dựng máy lên và, với sự giúp đỡ của đại biểu địa phương ở Quốc hội Richard Parkyns, gặp Henry Carey, Chúa công Hudson, một thành viên của Hội đồng Cơ mật của Nữ hoàng. Carey đã dàn xếp cho Nữ hoàng Elizabeth đến xem chiếc máy, nhưng phản ứng của bà đã gây choáng váng. Bà đã từ chối cấp bằng sáng chế cho Lee, thay vào đó lại nhận xét, “Cậu Lee, nhà ngươi nhắm cao. Nhà ngươi hãy cân nhắc sáng chế này có thể làm gì đối với các thần dân đáng thương của ta. Nó sẽ chắc chắn làm cho họ phá sản bằng cách cướp đi công ăn việc làm của họ, như thế biến họ thành những kẻ ăn mày.” Bị đánh bại, Lee chuyển sang Pháp để thử vận may của mình ở đó; khi đã thất bại ở đó, ông quay về nước Anh, nơi ông đã yêu cầu James I (1603-1625), vua kế vị Elizabeth, cấp bằng sáng chế, James I cũng đã từ chối, vì cùng lý do như Elizabeth. Cả hai đã sợ rằng việc cơ giới hóa sản xuất dệt kim sẽ gây bất ổn về mặt chính trị. Nó sẽ ném người dân khỏi việc làm, gây ra thất nghiệp và bất ổn chính trị, và đe dọa quyền lực hoàng gia. Máy dệt kim đã là một đổi mới hứa hẹn sự tăng năng suất khổng lồ, nhưng nó cũng hứa hẹn một sự phá hủy sáng tạo.
PHẢN ỨNG ĐỐI VỚI sáng chế tài giỏi của Lee minh họa ý tưởng then chốt của cuốn sách này. Sự sợ hãi phá hủy sáng tạo là lý do chủ yếu vì sao đã không có sự gia tăng bền vững của mức sống giữa các cuộc Cách mạng đồ Đá Mới và Cách mạng công nghiệp. Đổi mới công nghệ làm cho các xã hội loài người thịnh vượng, nhưng nó cũng kéo theo việc thay thế cái cũ bằng cái mới, và sự phá hủy các đặc quyền kinh tế và quyền lực chính trị của những người nhất định. Cho tăng trưởng kinh tế bền vững, chúng ta cần các công nghệ mới, những cách mới để làm các thứ, và thường thường chúng sẽ đến từ những người mới như Lee. Nó có thể làm cho xã hội thịnh vượng, nhưng quá trình phá hủy sáng tạo mà nó khởi động sẽ đe dọa sinh kế của những người làm việc với công nghệ cũ, như những người đan tay mà sẽ thấy mình bị thất nghiệp bởi công nghệ của Lee. Quan trọng hơn, những đổi mới lớn như máy dệt kim của Lee cũng đe dọa định hình lại quyền lực chính trị. Cuối cùng chẳng phải là sự lo lắng cho số phận của những người có thể trở thành những người thất nghiệp như kết quả của máy dệt của Lee đã là cái dẫn Elizabeth I và James I đến chống đối sáng chế của ông; mà chính là sự sợ hãi của họ rằng họ sẽ trở thành những kẻ thua chính trị – nỗi lo ngại của họ rằng những người bị sáng chế sa thải sẽ gây ra bất ổn chính trị và đe dọa quyền lực riêng của họ. Như chúng ta đã thấy với các Luddite (trang 85-86), thường có thể phớt lờ sự kháng cự của những người lao động như những người đan bằng tay. Nhưng giới elite, đặc biệt khi quyền lực của họ bị đe dọa, tạo ra một rào cản ghê gớm hơn đối với đổi mới. Sự thực rằng họ có nhiều để mất từ sự phá hủy sáng tạo có nghĩa không chỉ rằng họ sẽ không phải là những người đưa những sự đổi mới sáng tạo mới vào, mà cũng có nghĩa rằng họ thường chống lại và thử chặn những đổi mới như vậy. Như thế xã hội cần những người mới đến để đưa ra những đổi mới cấp tiến nhất, và những người mới này và sự phá hủy sáng tạo họ gây ra thường phải vượt qua nhiều nguồn kháng cự, kể cả sự kháng cự từ các nhà cai trị và các elite hùng mạnh.
Trước nước Anh thế kỷ thứ mười bảy, các thể chế khai thác đã là chuẩn mực suốt lịch sử. Có lúc chúng đã có thể tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, như đã được chỉ ra trong hai chương trước, đặc biệt khi chúng chứa những yếu tố bao gồm, như ở Venice và Rome. Nhưng chúng đã không cho phép sự phá hủy sáng tạo. Sự tăng trưởng mà chúng tạo ra đã không bền vững, và đi đến một sự kết thúc bởi vì thiếu các đổi mới sáng tạo mới, bởi vì sự đấu đá chính trị nội bộ kịch liệt do mong muốn để hưởng lợi từ sự khai thác gây ra, hoặc bởi vì các yếu tố bao gồm mới sinh đã bị đảo ngược một cách dứt khoát, như ở Venice.
Ước tính tuổi thọ của một cư dân của một làng Netufian ở Abu Hureyra có lẽ đã không khác mấy với ước tính tuổi thọ của một công dân La Mã Cổ xua. Ước tính tuổi thọ của một người La Mã điển hình đã khá giống tuổi thọ của một cư dân trung bình của nước Anh trong thế kỷ thứ mười bảy. Về mặt thu nhập, trong năm 301 SCN, hoàng đế La Mã Diocletian đã ban hành Chỉ dụ về Giá Tối đa, mà đã quy định một sơ đồ lương mà những loại người lao động khác nhau được trả. Chúng ta không biết chính xác các loại lương và giá của Diocletian đã được thực thi tốt như thế nào, nhưng khi sử gia kinh tế Robert Allen sử dụng chỉ dụ của ngài để tính các mức sống của một một người lao động điển hình không có kỹ năng, ông đã thấy chúng hầu như chính xác như các mức sống của một người lao động không có kỹ năng ở Italy thế kỷ mười bảy. Xa hơn theo hướng bắc, ở nước Anh, lương đã cao hơn và tăng lên, và tình hình đã đang thay đổi. Việc này đã xảy ra như thế nào là chủ đề của chương này.
XUNG ĐỘT CHÍNH TRỊ LUÔN LUÔN HIỆN DIỆN
Xung đột về các thể chế và sự phân bổ các nguồn lực đã tràn khắp trong lịch sử. Chúng ta đã thấy, chẳng hạn, xung đột chính trị đã định hình thế nào sự tiến triển của La Mã Cổ xưa và Venice, nơi cuối cùng nó đã được giải quyết có lợi cho các elite, những người đã có khả năng tăng sự bám giữ quyền lực của họ.
Lịch sử Anh cũng đầy rẫy xung đột giữa nền quân chủ và các thần dân của nó, giữa các phe nhóm khác nhau đấu tranh giành quyền lực, và giữa các elite và các công dân. Kết quả, tuy vậy, đã không luôn luôn để củng cố quyền lực của những người nắm nó. Trong năm 1215, các nam tước, tầng lớp elite dưới vua, đã chống lại Vua John và đã bắt nhà vua ký Magna Carta (“Hiến chương Vĩ đại”) ở Runnymede (xem Bản đồ 9, trang 112). Văn kiện này đã ban hành một số nguyên tắc cơ bản mà đã là những thách thức đáng kể đối với quyền lực của nhà vua. Quan trọng nhất, nó đã xác lập rằng nhà vua phải tham vấn các nam tước để tăng các loại thuế. Điều khoản lôi thôi nhất đã là điều số 61, mà nó nói rõ, “các nam tước sẽ chọn bất cứ hai mươi lăm nam tước nào thuộc lĩnh vực nào họ muốn, những người với tất cả sức mạnh của họ là để tuân thủ, bảo vệ, và làm cho được tuân thủ hòa bình và các quyền tự do mà chúng ta đã ban và đã xác nhận chúng bằng hiến chương hiện tại này của chúng ta.” Về cơ bản, các nam tước đã lập ra một hội đồng để đảm bảo chắc chắn rằng nhà vua thực hiện hiến chương, và nếu nhà vua không thực hiện thì hai mươi lăm nam tước này đã có quyền chiếm các lâu đài, đất đai, và các tài sản “... cho đến khi, theo phán xét của họ, đã được bồi thường.” Vua John đã không thích Magna Carta, và ngay sau khi các nam tước giải tán, ông đã bảo giáo hoàng bãi bỏ nó. Nhưng cả quyền lực chính trị của các nam tước và ảnh hưởng của Magna Carta đã vẫn còn. Nước Anh đã đi bước đi chập chững đầu tiên của nó hướng tới chủ nghĩa đa nguyên.
Xung đột về các thể chế chính trị vẫn tiếp tục, và quyền lực của nền quân chủ đã bị hạn chế thêm bởi Quốc hội được bầu đầu tiên trong năm 1265. Không giống Đại hội Dân thường ở Rome hay các cơ quan lập pháp được bầu ngày nay, các thành viên của nó khởi đầu đã là các quý tộc phong kiến, và sau đó đã là các hầu tước (knight) và các quý tộc giàu có nhất của quốc gia. Bất chấp việc gồm có các elite, Quốc hội Anh đã phát triển hai đặc trưng phân biệt. Thứ nhất, nó đã đại diện không chỉ cho các elite gắn bó thân thiết với nhà vua mà cả một tập hợp rộng các lợi ích, kể cả các quý tộc nhỏ dính dáng đến các ngành nghề khác nhau, như thương mại và công nghiệp, và muộn hơn là “gentry – tầng lớp quý tộc nhỏ”, một tầng lớp mới của các nông dân thương mại và di động hướng lên. Như thế Quốc hội đã trao quyền cho một bộ phận khá rộng của xã hội – đặc biệt theo tiêu chuẩn của thời đó. Thứ hai, và chủ yếu như một kết quả của đặc trưng thứ nhất, nhiều thành viên Quốc hội đã phản đối một cách kiên định các nỗ lực của nền quân chủ để tăng quyền lực của nó và sẽ trở thành trụ cột của những người chiến đấu chống lại chế độ quân chủ trong Nội Chiến Anh và trong Cách mạng Vinh quang.
Dẫu có Magna Carta và Quốc hội được bầu đầu tiên, tuy vậy, xung đột chính trị vẫn tiếp tục về quyền lực của nền quân chủ và ai là vua. Xung đột giữa-elite này đã chấm dứt với Chiến tranh Hoa Hồng, một cuộc tranh chấp tay đôi dài giữa các Dòng họ Lancaster và York, hai dòng họ với các địch thủ để làm vua. Những người thắng đã là những người thuộc dòng họ Lancaster, mà ứng viên làm vua của họ, Henry Tudor, đã trở thành Henry VII trong năm 1485.
Hai quá trình có quan hệ qua lại khác đã xảy ra. Quá trình thứ nhất đã là sự tập trung hóa chính trị tăng lên, được khởi động bởi nhà Tudor. Sau 1485 Henry VII đã tước vũ khí giới quý tộc, thực ra, phi quân sự họ và vì thế mở rộng một cách ồ ạt quyền lực của nhà nước trung ương. Con trai ông, Henry VIII, đã thực hiện qua bộ trưởng chính của ông, Thomas Comwell, một cuộc cách mạng trong chính phủ. Trong các năm 1530, Comwell đã đưa vào một nhà nước quan liêu mới sinh. Thay cho chính phủ chỉ làm việc nội trợ riêng cho nhà vua, nó trở thành một tập hợp tách biệt của các tổ chức lâu dài. Điều này được bổ sung bởi việc Henry VIII từ bỏ Giáo hội Công giáo (Catholic) La Mã và “sự Giải tán các Tu viện,” mà trong đó Henry VIII đã chiếm đoạt tất cả đất của Giáo hội. Việc dỡ bỏ quyền lực của Giáo hội đã là một phần của việc làm cho nhà nước tập trung hơn. Sự tập trung hóa này của các thể chế nhà nước đã có nghĩa rằng lần đầu tiên, các thể chế chính trị bao gồm đã trở nên có thể. Quá trình này được khởi xướng bởi Henry VII và Henry VIII không chỉ đã tập trung hóa các thể chế nhà nước mà cũng đã làm tăng đòi hỏi cho sự đại diện chính trị có cơ sở rộng hơn. Quá trình tập trung hóa chính trị thực sự có thể dẫn đến một hình thức của chủ nghĩa chuyên chế, khi nhà vua và các đồng minh của ông có thể nghiền nát các nhóm hùng mạnh khác trong xã hội. Đấy quả thực đã là một trong những lý do vì sao có sự phản đối chống lại sự tập trung hóa nhà nước, như chúng ta đã thấy ở chương 3. Tuy vậy, đối lập với lực lượng này, sự tập trung hóa các thể chế nhà nước cũng có thể huy động sự đòi hỏi một hình thức mới sinh của chủ nghĩa đa nguyên, như nó đã làm ở nước Anh dưới thời Tudor. Khi các nam tước và các elite khác nhận ra rằng quyền lực chính trị sẽ ngày càng tập trung hơn và rằng quá trình này khó để chặn lại, họ sẽ đưa ra những đòi hỏi để có tiếng nói về quyền lực được tập trung này sẽ được sử dụng ra sao. Trong nước Anh của cuối thế kỷ mười lăm và thế kỷ thứ mưới sáu, điều này đã có nghĩa rằng các nỗ lực của các nhóm này để có một Quốc hội như cái đối trọng với Quốc vương và để kiểm soát một phần cách nhà nước hoạt động. Như thế dự án Tudor đã không chỉ khởi xướng sự tập trung hóa chính trị, một trụ cột của các thể chế bao gồm, mà nó cũng đóng góp gián tiếp cho chủ nghĩa đa nguyên, trụ cột khác của các thể chế bao gồm.
Những sự phát triển này về các thể chế chính trị đã xảy ra trong một bối cảnh của những thay đổi lớn về bản chất của xã hội. Đặc biệt quan trọng đã là sự mở rộng xung đột chính trị mà đã mở rộng tập hợp các nhóm có khả năng để đưa ra những đòi hỏi đối với nền quân chủ và các elite chính trị. Cuộc Khởi nghĩa Nông dân (trang 99) năm 1381 đã là mấu chốt, mà sau đó elite Anh bị rung chuyển bởi một chuỗi dài các cuộc nổi dậy của nhân dân. Quyền lực chính trị đã được phân bổ lại không chỉ đơn giản từ nhà vua sang các thượng nghị sĩ, mà cũng từ giới elite sang nhân dân. Những thay đổi này, cùng với những hạn chế ngày càng tăng lên quyền lực của nhà vua, đã làm cho sự nổi lên của một liên minh rộng chống lại chính thể chuyên chế là có thể và như thế đặt nền tảng cho các thể chế chính trị đa nguyên.
Mặc dù bị phản bác, các thể chế chính trị và kinh tế của các triều đại Tudor kế thừa và duy trì đã rõ ràng là khai thác. Trong năm 1603 Elizabeth I, con gái Henry VIII người đã lên ngai vàng của nước Anh vào năm 1553, đã chết mà không có con, các triều đại Tudor bị thay thế bằng triều đại nhà Stuart. Vua Stuart đệ nhất, James I, đã không chỉ kế thừa các thể chế mà cả xung đột về chúng. Ông đã muốn trở thành một nhà cai trị chuyên chế. Mặc dù nhà nước đã trở nên tập trung hơn và sự thay đổi xã hội đang phân bổ lại quyền lực trong xã hội, các thể chế chính trị đã vẫn chưa là các thể chế đa nguyên. Trong nền kinh tế, các thể chế khai thác đã tự biểu thị không chỉ trong việc phản đối sáng chế của Lee, mà trong dạng của các độc quyền, các độc quyền, và nhiều các độc quyền hơn. Trong năm 1601, một danh sách các độc quyền này được đọc lên trong Quốc hội, với một thành viên hỏi một cách châm biếm, “không có bánh mỳ ở đó ư?” Vào năm 1621 số chúng đã có bảy trăm. Như sử gia Anh Christopher Hill diễn đạt, một người đã sống
trong một ngôi nhà được xây bằng gạch độc quyền, với các cửa sổ … có kính độc quyền; được sưởi ấm bằng than độc quyền (ở Ireland bằng củi gỗ độc quyền), cháy trong lò sưởi làm bằng sắt độc quyền … Ông ta tắm bằng xà phòng độc quyền, quần áo của ông ta được hồ cứng bằng hồ độc quyền. Ông ta mặc quần áo bằng đăng ten độc quyền, vải lanh độc quyền, da thuộc độc quyền, chỉ vàng độc quyền. Quần áo của ông ta được giữ bằng dây lưng độc quyền, cúc độc quyền và ghim độc quyền. Chúng được nhuộm bằng các thuốc nhuộm độc quyền. Ông ta ăn bơ độc quyền, các quả lý chua độc quyền, cá trích đỏ độc quyền, cá hồi độc quyền, và tôm hùm độc quyền. Thức ăn của ông ta được thêm gia vị bằng muối độc quyền, hồ tiêu độc quyền, dấm độc quyền … Ông viết bằng bút độc quyền, đọc (qua các cặp kính độc quyền, với ánh sáng của nến độc quyền) các sách in độc quyền.
Các độc quyền này, và còn nhiều hơn nữa, đã cho các cá nhân hay các nhóm quyền độc nhất để kiểm soát việc sản xuất nhiều mặt hàng. Chúng cản trở loại phân bổ tài năng, mà hết sức cốt yếu cho sự thịnh vượng kinh tế.
Cả James I và con ông, người kế vị ông, Charles I đã khao khát tăng cường nền quân chủ, giảm ảnh hưởng của Quốc hội, và thiết lập các thể chế chuyên chế giống các thể chế được xây dựng ở Tây Ban Nha và Pháp để đẩy mạnh sự kiểm soát của họ và của giới elite đối với nền kinh tế, làm cho các thể chế có tính khai thác hơn. Xung đột giữa James I và Quốc hội đã lên đến tột đỉnh trong các năm 1620. Trung tâm của cuộc xung đột này đã là sự kiểm soát thương mại cả quốc tế lẫn bên trong các đảo Anh. Khả năng của Quốc vương để cấp các độc quyền đã là nguồn chủ chốt của thu nhập cho nhà nước, và đã được dùng thường xuyên như một cách để ban các quyền độc quyền cho những người ủng hộ nhà vua. Không ngạc nhiên, thể chế khai thác này ngăn chặn sự gia nhập và hạn chế hoạt động của thị trường cũng đã làm tổn hại hoạt động kinh tế và lợi ích của nhiều thành viên của Quốc hội. Trong năm 1623, Quốc hội đã ghi một chiến thắng đáng kể bằng tìm được cách để thông qua Đạo luật Độc quyền, mà đã cấm James tạo ra các độc quyền nội địa mới. Ông vẫn còn có thể cấp độc quyền thương mại quốc tế, tuy vậy, vì quyền hạn của Quốc hội đã không mở rộng ra các vấn đề quốc tế. Các độc quyền hiện tồn, quốc tế hay nội địa, đã không bị đụng chạm đến.
Quốc hội đã không họp đều đặn và phải được nhà vua triệu tập họp. Thông lệ mà đã nổi lên sau Magna Carta đã là nhà vua phải họp với Quốc hội để nhận được sự phê chuẩn cho các khoản thuế mới. Charles đã lên ngôi năm 1625, đã từ chối triệu tập Quốc hội họp sau 1629, và đã tăng cường các nỗ lực của James I để xây dựng một chế độ chuyên chế vững chắc hơn. Ông ta đưa vào việc cho vay bắt buộc, có nghĩa rằng người dân phải cho ông ta “vay” tiền, và ông ta đơn phương thay đổi các điều khoản của món vay và từ chối trả nợ. Ông đã tạo ra và bán các quyết định trong một lĩnh vực mà Đạo luật Độc quyền đã để lại cho ông: các doanh nghiệp mạo hiểm buôn bán với nước ngoài. Ông cũng đã làm xói mòn tính độc lập của ngành tư pháp và đã thử can thiệp để ảnh hưởng đến kết quả của các vụ kiện. Ông đã thu nhiều khoản tiền phạt và tiền thù lao, khoản lôi thôi nhất trong số đó là “tiền tàu thuyền” – trong năm 1634 đánh thuế các hạt ven biển để đóng khoản ủng hộ Hải quân Hoàng gia, và trong năm 1635, mở rộng việc thu ra các hạt nội địa. Tiền tàu đã được thu mỗi năm cho đến 1640.
Hành vi ngày càng chuyên chế và các chính sách khai thác của Charles đã tạo ra sự oán giận và sự chống cự trên khắp đất nước. Trong năm 1640 ông đã đối mặt với một xung đột với Scotland và, không có đủ tiền để đưa một quân đội thích đáng ra trận, ông đã buộc phải triệu tập Quốc hội để xin nhiều thuế hơn. Cái gọi là Quốc hội Ngắn đã họp chỉ ba tuần. Các nghị sĩ hùng biện những người đến London đã từ chối bàn về thuế, nhưng đã thổ lộ nhiều lời phàn nàn, cho đến khi Charles gạt bỏ chúng. Những người Scot đã nhận ra rằng Charles đã không có sự ủng hộ của dân tộc và đã xâm chiếm nước Anh, chiếm đóng thành phố Newcastle. Charles đã mở ra các cuộc thương thuyết, và những người Scot đã đòi hỏi rằng Quốc hội phải tham gia. Việc này xui khiến Charles triệu tập cái khi đó được biết đến như Quốc hội Dài, bởi vì nó tiếp tục họp cho đến 1648, từ chối giải tán ngay cả khi Charles đã yêu cầu nó làm thế.
Trong năm 1642 Nội Chiến đã nổ ra giữa Charles và Quốc hội, cho dù có nhiều người trong Quốc hội đã đứng về phía Quốc vương. Hình mẫu của các cuộc xung đột đã phản ánh cuộc đấu tranh về các thể chế chính trị và kinh tế. Quốc hội đã muốn một sự kết thúc các thể chế chính trị chuyên chế; nhà vua đã muốn chúng được củng cố. Các xung đột này đã có gốc rễ trong kinh tế. Nhiều người đã ủng hộ Quốc vương bởi vì họ đã được ban cho các độc quyền béo bở. Thí dụ, các độc quyền địa phương được kiểm soát bởi các nhà buôn giàu và hùng mạnh ở Shrewsbury và Onswestry đã được Quốc vương bảo vệ khỏi sự cạnh tranh của các nhà buôn London. Các nhà buôn này đã đứng về phía Charles I. Ở phía bên kia, công nghiệp luyện kim đã hưng thịnh xung quanh Birmingham bởi vì các độc quyền đã là yếu ở đó và những người mới đến ngành công nghiệp đã không phải phục vụ bảy năm học nghề như họ đã phải ở các phần khác của nước Anh. Trong Nội Chiến họ đã làm ra gươm và tạo ra những người tình nguyện cho phía Quốc hội. Tương tự, việc thiếu điều tiết phường hội ở hạt Lancashire đã cho phép sự phát triển “Vải vóc Mới”, một loại mới của vải nhẹ, trước năm 1640. Vùng nơi việc sản xuất các vải này được tập trung đã là phần duy nhất của Lancashire ủng hộ phe Quốc hội.
Dưới sự lãnh đạo của Oliver Cromwell, các Nghị sĩ hùng biện – được biết đến như những người Đầu Tròn gọi theo kiểu mà theo đó tóc của họ được cắt – đã đánh bại những người theo chủ nghĩa bảo hoàng – được biết đến như các Kỵ sĩ. Charles đã bị xét xử và bị hành quyết trong năm 1649. Sự thất bại của ông và sự thủ tiêu nền quân chủ, tuy vậy, đã không tạo ra các thể chế bao gồm. Thay vào đó, nền quân chủ bị thay thế bởi chế độ độc tài của Olivier Cromwell. Tiếp sau cái chết của Cromwell, nền quân chủ được phục hồi trong năm 1660 và đã lấy lại nhiều đặc quyền mà đã bị tước mất trong năm 1649. Con trai của Charles, Charles II, sau đó lại bắt đầu cùng chương trình để tạo ra chính thể chuyên chế ở nước Anh. Những nỗ lực này đã chỉ được tăng cường bởi em trai ông James II, người lên ngôi sau khi Charles chết trong năm 1685. Trong năm 1688, nỗ lực của James để thiết lập lại chính thể chuyên chế đã tạo ra một cuộc nội chiến nữa. Lần này Quốc hội đã thống nhất hơn và có tổ chức hơn. Họ đã mời Statholder (phó Vương, Thống đốc) Hà Lan, William xứ Orange, và vợ ông, Mary, con gái theo giáo phái Kháng cách (Protestant) của James, để thay thế James. William mang một quân đội và yêu sách ngai vàng, để cai trị không như một quốc vương chuyên chế mà dưới một nền quân chủ lập hiến do Quốc hội tạo dựng. Hai tháng sau sự cập bến của William ở các đảo Anh tại Brixham ở Devon (xem Bản đồ 9, trang 112), quân đội của James đã tan rã và ông đã chạy trốn sang Pháp.
CÁCH MẠNG VINH QUANG
Sau chiến thắng trong Cách mạng Vinh quang, Quốc hội và William đã thương lượng một hiến pháp mới. Những thay đổi đã được báo trước bởi “Tuyên ngôn” của William được đưa ra không lâu trước cuộc xâm lấn của ông. Chúng được lưu giữ thêm trong Tuyên ngôn về các Quyền (Declaration of Rights), do Quốc hội soạn ra trong tháng Hai năm 1689. Tuyên ngôn đã được đọc hết cho William nghe trong cùng phiên họp nơi ông được trao vương miện. Theo nhiều cách, Tuyên ngôn, mà được gọi là Đạo luật về các Quyền sau khi nó được ký thành luật, đã mơ hồ. Một cách quyết định, tuy vậy, nó đã thiết lập các nguyên tắc lập hiến chính yếu. Nó đã xác định sự kế vị ngai vàng, và đã làm vậy theo một cách trệch đáng kể khỏi các nguyên tắc cha truyền con nối được công nhận là đúng khi đó. Nếu một lần Quốc hội đã có thể loại bỏ một quốc vương và thay thế ông ta bằng một người họ ưa thích hơn, thì tại sao lại không lần nữa? Tuyên ngôn về các Quyền cũng đã khẳng định rằng quốc vương không thể đình chỉ luật hay không được miễn trừ nghĩa vụ tuân thủ luật, và nó cũng đã nhắc lại tính bất hợp pháp của thuế mà không có sự tán thành của Quốc hội. Ngoài ra, nó tuyên bố rằng không thể có quân đội thường trực nào ở nước Anh mà không có sự ưng thuận của Quốc hội. Sự mơ hồ lẻn vào các điều khoản như điều số 8, mà tuyên bố, “việc bầu các thành viên của Quốc hội phải là tự do,” nhưng nó đã không quy định rõ “tự do” được xác định thế nào. Còn mơ hồ hơn là điều 13, mà nội dung chính của nó là các Quốc hội cần phải tổ chức [họp] thường xuyên. Vì khi nào và liệu có thể tổ chức [họp] Quốc hội đã là một vấn đề tranh cãi trong suốt cả thế kỷ, người ta có thể kỳ vọng sự quy định chi tiết hơn nhiều trong điều khoản này. Tuy nhiên, lý do của việc hành văn mơ hồ này là rõ. Các điều khoản phải được thực thi. Trong triều đại của Charles II, đã có một Đạo luật Ba năm mà nó khẳng định rằng các Quốc hội phải được triệu tập ít nhất một lần trong mỗi ba năm. Nhưng Charles đã phớt lờ nó, và đã chẳng có gì xảy ra, bởi vì đã không có phương pháp để thực thi nó. Sau 1688, Quốc hội đã có thể thử đưa ra một phương pháp để thực thi điều khoản này, như các nam tước đã làm với hội đồng của họ sau khi Vua John ký Magna Carta. Họ đã không làm vậy bởi vì họ đã không cần phải làm thế. Điều này là bởi vì quyền lực và quyền quyết định đã được chuyển cho Quốc hội sau 1688. Ngay cả không có các quy tắc hay luật lập hiến cụ thể, William đơn giản đã từ bỏ nhiều tập quán của các vị vua trước đó. Ông đã ngừng can thiệp vào các quyết định pháp lý và từ bỏ “các quyền” trước, như nhận được thu nhập thuế quan suốt đời. Tóm lại, những thay đổi này về các thể chế chính trị thể hiện chiến thắng của Quốc hội đối với nhà vua, và như thế chấm dứt chính thể chuyên chế ở nước Anh và sau đó ở Vương quốc Anh – khi nước Anh và Scotland thống nhất bằng Đạo luật Thống nhất năm 1707. Từ đó trở đi, Quốc hội đã nắm vững chắc sự kiểm soát chính sách nhà nước. Điều này tạo ra một sự khác biệt to lớn, bởi vì các lợi ích của Quốc hội đã rất khác với các lợi ích của các vua nhà Stuart. Vì nhiều người trong Quốc hội đã có các khoản đầu tư quan trọng trong thương mại và công nghiệp, họ đã có quyền lợi mạnh mẽ trong thực thi các quyền tài sản. Nhà Stuart đã thường xuyên vi phạm các quyền tài sản; bây giờ chúng sẽ được giữ gìn. Hơn nữa, khi nhà Stuart kiểm soát việc chính phủ chi tiêu tiền thế nào, Quốc hội đã phản đối các khoản thuế lớn hơn và đã ngần ngại trước sự tăng cường quyền lực của nhà nước. Bây giờ bản thân Quốc hội kiểm soát việc chi tiêu, nó đã vui lòng tăng thuế và chi tiền cho các hoạt động mà nó cho là có ích. Đứng đầu trong các hoạt động đó đã là tăng cường hải quân, mà sẽ bảo vệ các lợi ích buôn bán quốc tế của nhiều thành viên của Quốc hội.
Thậm chí còn quan trọng hơn các lợi ích của các nghị sĩ hùng biện đã là bản chất đa nguyên đang nổi lên của các thể chế chính trị. Nhân dân Anh bây giờ đã có sự tiếp cận đến Quốc hội, theo một cách mà họ chưa từng có khi chính sách bị nhà vua lèo lái. Tất nhiên, việc này đã chỉ là một phần bởi vì các thành viên của Quốc hội được bầu. Nhưng vì nước Anh còn xa mới là một nền dân chủ trong thời kỳ đó, sự tiếp cận này đã chỉ cung cấp một mức độ đại diện khiêm tốn. Giữa nhiều bất bình đẳng của nó là chỉ có ít hơn 2 phần trăm dân số đã có thể bỏ phiếu trong thế kỷ thứ mười tám, và những người này đã phải là các đàn ông. Các thành phố nơi Cách mạng Công nghiệp đã xảy ra, Birmingham, Leeds, Manchaster, và Sheffield, đã không có sự đại diện độc lập trong Quốc hội. Thay vào đó các vùng nông thôn lại được đại diện quá mức. Tồi không kém là, quyền bỏ phiếu ở vùng nông thôn, ở các “hạt-county”, đã dựa trên quyền sở hữu đất, và nhiều vùng đô thị, các “thành phố – borough”, đã bị kiểm soát bởi elite nhỏ, người đã không cho phép các nhà công nghiệp mới được bỏ phiếu hay ứng cử vào một chức vụ. Trong thành phố Birmingham, chẳng hạn, mười ba thị dân đã có độc quyền để bỏ phiếu. Thêm vào đấy đã có “các thành phố mục nát,” mà về mặt lịch sử đã có quyền bỏ phiếu nhưng “đã mục nát hết,” hoặc bởi vì dân cư của nó đã chuyển đi theo thời gian hay, trong trường hợp của Dunwich ở bờ đông nước Anh, đã thực sự rơi vào đại dương như kết quả của sự sạt lở bờ. Trong mỗi của các thành phố mục nát này, một số nhỏ những người bỏ phiếu bầu ra hai thành viên của Quốc hội. Sarum cổ đã có bảy người có quyền bỏ phiếu, Dunwich ba mươi hai, và mỗi thành phố bầu hai thành viên của Quốc hội.
Nhưng đã có những cách khác để ảnh hưởng đến Quốc hội và như thế đến các thể chế kinh tế. Quan trọng nhất đã là thông qua kiến nghị, và cách này đã quan trọng hơn rất nhiều so với mức độ hạn chế của dân chủ cho sự nổi lên của chủ nghĩa đa nguyên sau Cách mạng Vinh quang. Bất cứ ai đã đều có thể kiến nghị với Quốc hội, và họ đã làm. Rất quan trọng, khi người dân kiến nghị, Quốc hội đã lắng nghe. Điều này hơn bất cứ thứ gì khác đã phản ánh sự thất bại của chính thể chuyên chế, sự trao quyền cho một mảng khá rộng của xã hội, và sự thăng tiến của chủ nghĩa đa nguyên ở nước Anh sau 1688. Hoạt động kiến nghị cuống cồng cho thấy rằng quả thực đã là một nhóm rộng như vậy trong xã hội, vượt quá xa những người ngồi trong hay thậm chí được đại diện trong Quốc hội, mà đã có sức mạnh để ảnh hưởng đến cách nhà nước hoạt động. Và họ đã sử dụng nó.
Trường hợp của các độc quyền minh họa điều này rõ nhất. Chúng ta đã thấy ở trên các độc quyền đã ở trung tâm của các thể chế kinh tế khai thác như thế nào trong thế kỷ thứ mười bảy. Chúng đã bị tấn công trong năm 1623 với Đạo luật Độc quyền, và đã là một vấn đề gây bất đồng nghiêm trọng trong Nội Chiến Anh. Quốc hội Dài đã xóa bỏ tất cả các độc quyền nội địa mà đã ảnh hưởng hết sức đến đời sống nhân dân. Mặc dù Charles II và James II đã không thể đưa các độc quyền này trở lại, họ đã tìm được cách để duy trì khả năng cấp các độc quyền hải ngoại. Một đã là Công ty Hoàng gia Phi châu, Royal African Company, RAC, mà điều lệ độc quyền của nó được Charles II ban hành năm 1660. Công ty này đã giữ độc quyền về buôn bán nô lệ Phi châu béo bở, và thống đốc và cổ đông chính của nó đã là James em của Charles, người không lâu sau đã trở thành James II. Sau 1688 công ty đã mất không chỉ thống đốc của nó, mà cả người ủng hộ chính của nó. James đã bảo vệ một cách chuyên cần sự độc quyền của công ty chống lại “những kẻ xen ngang,” các nhà buôn độc lập những người đã thử mua nô lệ ở Tây châu Phi và bán chúng ở châu Mỹ. Đây đã là việc buôn bán rất có lời, và RAC đã đối mặt với nhiều thách thức, vì tất cả việc buôn bán khác của người Anh qua Đại Tây Dương đã là tự do. Năm 1689 RAC đã chiếm hàng hóa của một kẻ xen ngang, một Nightingale (Chim Sơn ca). Nightingale kiện RAC đã chiếm bất hợp pháp hàng hóa, và Chánh Án Holt đã phán quyết rằng việc chiếm của RAC là bất hợp pháp bởi vì nó đã sử dụng một quyền độc quyền được tạo ra bởi đặc quyền hoàng gia. Holt đã lập luận rằng các đặc quyền độc quyền đã có thể được tạo ra chỉ bởi luật, và việc này đã phải do Quốc hội làm. Như thế Holt đã đẩy tất cả các độc quyền tương lai, không chỉ của RAC, vào tay của Quốc hội. Trước 1688 James II đã có thể nhanh chóng loại bỏ bất cứ thẩm phán nào người đưa ra phán xét như vậy. Sau 1688 tình hình đã khác.
Bây giờ Quốc hội phải quyết định làm gì với sự độc quyền, và các kiến nghi bắt đầu bay tới tấp. Một trăm ba mươi lăm đã đến từ những kẻ xen ngang đòi tự do thương mại ở Đại Tây Dương. Mặc dầu RAC đã phản ứng bằng đúng cách như thế, nó đã không thể hy vọng để sánh ngang số lượng hay quy mô của các kiến nghị đòi cái chết của nó. Những kẻ xen ngang đã thành công trong định khung sự phản đối của họ dưới dạng không chỉ của tư lợi hạn hẹp, mà của lọi ích quốc gia, mà quả thực đã thế. Như một kết quả, chỉ 5 trong số 135 kiến nghi được ký bởi bản thân các nhà buôn xen ngang, và 73 trong số các kiến nghị của những kẻ xen ngang đã đến từ các tỉnh bên ngoài London, đối lại với 8 cho RAC. Từ các thuộc địa, nơi việc đưa thỉnh cầu, kiến nghị cũng đã được phép, những kẻ xen ngang thu được 27 kiến nghị, RAC được 11. Những kẻ xen ngang đã thu thập được nhiều chữ ký hơn nhiều cho các kiến nghị của họ, tổng cộng 8.000 so với 2.500 cho RAC. Cuộc chiến đấu tiếp diễn cho đến 1698, khi độc quyền của RAC bị hủy bỏ.
Cùng với vị trí mới này cho việc xác định các thể chế kinh tế và sự đáp lại nhanh nhạy mới sau 1688, các nghị sĩ bắt đầu thực hiện một loạt những thay đổi then chốt về các thể chế kinh tế và chính sách của chính phủ mà cuối cũng đã mở đường cho Cách mạng Công nghiệp. Các quyền tài sản bị xói mòn dưới thời nhà Stuart đã được tăng cường. Quốc hội đã bắt đầu một quá trình cải cách về các thể chế kinh tế để thúc đẩy chế tác, hơn là đánh thuế và cản trở nó. Loại “thuế nền lò sưởi” – một khoản thuế hàng năm cho mỗi lò sưởi hay cái lò, mà các nhà sản xuất chế tác phải chịu nặng nhất, những người đã phản đối nó một cách gay gắt – đã được hủy bỏ năm 1689, không lâu sau khi William và Mary lên ngôi. Thay cho đánh thuế nền lò sưởi Quốc hội bắt đầu đánh thuế đất.
Việc phân phối lại các gánh nặng thuế khóa đã không chỉ là chính sách ủng hộ chế tác mà Quốc hội ủng hộ. Cả một loạt các đạo luật và luật pháp mà mở rộng thị trường và tính sinh lợi của ngành dệt len đã được thông qua. Tất cả điều này có ý nghĩa chính trị, vì nhiều trong số các nghị sĩ những người phản đối James đã đầu tư nhiều vào các doanh nghiệp chế tác mới nảy sinh này. Quốc hội cũng đã thông qua luật pháp mà cho phép việc tổ chức lại hoàn toàn các quyền tài sản về đất, cho phép sự củng cố và sự loại bỏ nhiều hình thức cổ xưa về các quyền tài sản và quyền sử dụng.
Một ưu tiên khác của Quốc hội đã là cải cách ngành tài chính. Mặc dù đã có sự mở rộng hoạt động ngân hàng và tài chính trong thời kỳ dẫn tới Cách mạng Vinh quang, quá trình này đã được thắt chặt bởi việc thành lập Ngân hàng Anh quốc (Bank of England) năm 1694, như một nguồn quỹ cho công nghiệp. Nó đã là một hậu quả trực tiếp khác của Cách mạng Vinh quang. Việc thành lập Bank of England đã mở đường cho một “cách mạng tài chính” sâu rộng hơn nhiều, mà đã dẫn đến một sự mở rộng to lớn của các thị trường tài chính và hoạt động ngân hàng. Vào đầu thế kỷ mười tám, các khoản vay đã sẵn có cho bất cứ ai người có thể đặt các tài sản thế chấp cần thiết. Sổ sách của một ngân hàng tương đối nhỏ, C. Hoare’s & Co. ở London, mà đã sống sót nguyên vẹn từ giai đoạn 1702-1724, minh họa điểm này. Mặc dù ngân hàng đã có cho các quý tộc và chúa vay, toàn bộ hai phần ba của những người vay lớn nhất của Hoare trong thời kỳ này đã không phải từ các tầng lớp xã hội có đặc quyền. Thay vào đó họ đã là các nhà buôn, các nhà doanh nghiệp, kể cả một John Smith, một người với cái tên thông dụng của một người Anh trung bình, người đã được ngân hàng cho vay £2.600 trong giai đoạn 1715-1719.
Cho đến nay chúng ta đã nhấn mạnh Cách mạng Vinh quang đã biến đổi thế nào các thể chế chính trị Anh, biến chúng thành đa nguyên hơn, và cũng bắt đầu đặt nền móng cho các thể chế kinh tế bao gồm. Còn một sự thay đổi quan trọng nữa về các thể chế mà đã nổi lên từ Cách mạng Vinh quang: Quốc hội đã tiếp tục quá trình tập trung hóa chính trị mà đã được nhà Tudor khởi xướng. Đã không chỉ là các ràng buộc đã tăng lên, hay nhà nước đã điều tiết nền kinh tế theo một cách khác, hay nhà nước Anh đã chi tiêu tiền cho những thứ khác nhau; mà cũng là khả năng và năng lực của nhà nước đã tăng lên theo mọi hướng. Điều này lần nữa lại minh họa các mối liên hệ giữa sự tập trung hóa chính trị và chủ nghĩa đa nguyên: Quốc hội đã chống việc làm cho nhà nước hiệu quả hơn và được cấp nguồn lực tốt hơn trước 1688 bởi vì Quốc hội đã không thể kiểm soát nó. Sau 1688 đã là một câu chuyện khác.
Nhà nước đã bắt đầu mở rộng, với các khoản chi mau chóng đạt mức 10 phần trăm của thu nhập quốc gia. Việc này được trụ đỡ bởi một sự mở rộng cơ sở thuế, đặc biệt liên quan đến thuế hàng hóa, mà được thu trên sản phẩm của một danh sách dài các mặt hàng được sản xuất trong nước. Đấy đã là ngân sách nhà nước rất lớn trong giai đoạn đó, và thực ra lớn hơn mức mà chúng ta thấy ngày nay ở nhiều phần của thế giới. Ngân sách nhà nước ở Colombia, chẳng hạn, đã đạt quy mô tương đối này chỉ trong các năm 1980. Trong nhiều phần của châu Phi hạ-Sahara – thí dụ ở Sierra Leone – ngân sách nhà nước ngay cả ngày nay cũng nhỏ hơn rất nhiều so với quy mô của nền kinh tế mà không có các dòng chảy vào lớn của viện trợ nước ngoài.
Nhưng sự mở rộng quy mô của nhà nước chỉ là một phần của quá trình tập trung hóa chính trị. Quan trọng hơn điều này đã là chất lượng của cách mà nhà nước đã vận hành và cách ứng xử của những người kiểm soát nó và những người làm việc trong [bộ máy của] nó. Việc xây dựng các thể chế nhà nước ở nước Anh quay lại đến thời Trung Cổ, nhưng như chúng ta đã thấy (trang 186), các bước theo hướng tập trung hóa chính trị và phát triển bộ máy hành chính hiện đại đã được làm một cách dứt khoát bởi Henry VII và Henry VIII. Thế nhưng nhà nước vẫn còn xa hình thức hiện đại mà sẽ nổi lên sau 1688. Thí dụ, nhiều người được chỉ định đã được chọn trên cơ sở chính trị, chứ không phải bởi vì công trạng và tài năng, và nhà nước đã vẫn chỉ có năng lực rất hạn chế để thu thuế.
Sau 1688 Quốc hội đã bắt đầu cải thiện khả năng để tăng thu nhập thông qua đánh thuế, một sự phát triển được minh họa tốt bởi bộ máy quản lý thuế hàng hóa, mà đã mở rộng nhanh chóng từ 1.211 người năm 1690 lên 4.800 người vào năm 1780. Các thanh tra thuế hàng hóa đã đóng ở khắp đất nước, được giám sát bởi những người thu, những người tiến hành các đợt thanh tra để đo lường và kiểm tra số lượng bánh mì, bia, và các mặt hàng khác phải chịu thuế hàng hóa. Mức độ của hoạt động này được minh họa bởi sử gia John Brewer người tái dựng lại các vòng thanh tra thuế hàng hóa của Thanh tra George Cowperthwaite. Giữa 12 tháng Sáu và 5 tháng Bảy năm 1710, Thanh tra Cowperthwaite đã đi 290 dặm trong quận Richmond ở Yorkshire. Trong thời gian này ông đã đến 263 nhà buôn lương thực thực phẩm, 71 nhà buôn lúa mạch (malt), 20 nhà bán nến, và một nhà ủ rượu bia thông thường. Trong tất cả, ông đã tiến hành 81 đo lường khác nhau về sản xuất và đã kiểm tra công việc của 9 nhân viên thuế vụ hàng hóa những người đã làm việc cho ông ta. Tám năm sau chúng ta thấy ông làm việc cũng siêng năng như thế, nhưng bây giờ ở quận Wakefield, trong một phần khác của Yorkshire. Ở Wakefield ông đã đi trung bình hơn mười chín dặm mỗi ngày và đã làm việc sáu ngày một tuần, thường thanh tra bốn hay năm cơ sở. Trong ngày nghỉ của mình, ngày chủ nhật, ông soạn sổ sách của mình, cho nên chúng ta có một hồ sơ đầy đủ về các hoạt động của ông ta. Quả thực, hệ thống thuế hàng hóa đã có sự giữ hồ sơ rất tinh vi. Các quan chức giữ ba loại sổ sách khác nhau, mà tất cả trong số chúng được cho là khớp với nhau, và bất cứ sự giả mạo nào với các sổ sách này đều là sự vi phạm nghiêm trọng. Mức đáng chú ý này của sự giám sát nhà nước đối với xã hội vượt xa mức mà các chính phủ của hầu hết các nước nghèo có thể đạt được hiện nay, và đấy là trong năm 1710. Cũng quan trọng, sau 1688 nhà nước bắt đầu dựa nhiều hơn vào tài năng và ít hơn vào người được bổ nhiệm chính trị, và đã phát triển một hạ tầng cơ sở hùng mạnh để vận hành đất nước.
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP
Cách mạng Công nghiệp đã được biểu thị trong mọi khía cạnh của nền kinh tế Anh. Đã có những cải thiện lớn trong giao thông, luyện kim, và sức hơi nước. Nhưng lĩnh vực quan trọng nhất của đổi mới đã là cơ giới hóa việc sản xuất vải sợi và sự phát triển các nhà máy để sản xuất các mặt hàng dệt được chế tác này. Quá trình năng động này đã được tháo ra bởi những thay đổi thể chế mà đã bắt nguồn từ Cách mạng Vinh quang. Đấy đã không chỉ là về việc xóa bỏ các độc quyền nội địa, mà đã đạt được vào năm 1640, hay về các loại thuế khác nhau, hay về sự tiếp cận đến tài chính. Mà đã là về một sự tổ chức lại cơ bản các thể chế kinh tế ủng hộ các nhà đổi mới sáng tạo và các doanh nhân khởi nghiệp, dựa trên sự nổi lên của các quyền tài sản ngày càng an toàn và hiệu quả.
Những sự cải thiện về tính an toàn và hiệu quả của các quyền tài sản, chẳng hạn, đã đóng vai trò cốt yếu trong “cách mạng giao thông,” lót đường cho Cách mạng Công nghiệp. Đầu tư vào kênh và đường sá, vào cái được gọi là đường lớn, đã tăng lên ồ ạt sau năm 1688. Những khoản đầu tư này, bằng cách giảm chi phí giao thông, đã giúp tạo ra các diều kiện tiên quyết cho Cách mạng Công nghiệp. Trước năm 1688, việc đầu tư vào hạ tầng cơ sở như vậy đã bị cản trở bởi các hành động tùy tiện của các nhà vua Stuart. Sự thay đổi tình hình sau 1688 được minh họa sinh động bởi vụ sông Salwerpe, ở Worcestershire, nước Anh. Năm 1662 Quốc hội đã thông qua một đạo luật để khuyến khích đầu tư nhằm làm cho tàu bè có thể đi lại trên sông Salwerpe, và gia đình Baldwyn đã đầu tư £6.000 cho mục đích này. Đổi lại họ nhận được quyền thu phí tàu bè đi lại trên sông. Năm 1693 một dự luật được đưa ra cho Quốc hội để chuyển quyền thu phí tàu bè cho Bá tước xứ Shrewsbury và Lord Coventry. Đạo luật này bị thách thức bởi Sir Timothy Baldwyn, người đã ngay lập tức đệ một đơn khiếu nại lên Quốc hội cho rằng dự luật được kiến nghị đã cơ bản tước đoạt cha ông, người đã đầu tư nhiều vào dòng sông với dự tính các khoản phí mà sau đó ông có thể thu. Baldwyn đã biện luận rằng “đạo luật mới có xu hướng hủy bỏ đạo luật được nhắc đến đó, và lấy đi tất cả các công trình và vật liệu đã được làm để thực hiện việc ấy.” Sự phân bổ lại các quyền như việc này đã chính xác là loại việc được các quốc vương Stuart thực hiện. Baldwyn đã lưu ý, “là hệ quả nguy hiểm để lấy đi quyền của bất cứ cá nhân nào, giành được dưới một đạo luật của Quốc hội, mà không có sự đồng ý của họ.” Trong trường hợp này, đạo luật mới đã thất bại, và các quyền của nhà Baldwyn đã được giữ vững. Các quyền tài sản đã an toàn hơn nhiều sau 1688, một phần bởi vì làm cho chúng an toàn đã phù hợp với lợi ích của Quốc hội và một phần bởi vì các thể chế đa nguyên đã có thể bị ảnh hưởng bởi việc viết đơn kiến nghị. Chúng ta thấy ở đây rằng sau 1688 hệ thống chính trị đã trở nên đa nguyên hơn đáng kể và đã tạo ra sân chơi tương đối bằng phẳng bên trong nước Anh.
Đặt cơ sở cho cách mạng giao thông và, nói chung, cho việc sắp xếp lại đất đai mà xảy ra trong thế kỷ thứ mười tám đã là các đạo luật của Quốc hội mà làm thay đổi bản chất của quyền sở hữu tài sản. Cho đến 1688 đã có thậm chí một điều tưởng tượng pháp lý rằng tất cả đất đai ở nước Anh cuối cùng đều được sở hữu bởi Quốc vương, một di sản trực tiếp của tổ chức phong kiến của xã hội. Nhiều miếng đất đã bị đè nặng bởi nhiều hình thức cổ xưa của các quyền tài sản và nhiều đòi hỏi chồng chéo nhau. Nhiều đất đai đã được giữ trong cái gọi là các bất động sản ruộng đất công bằng (equitable estate), mà có nghĩa rằng các chủ đất không thể thế chấp, cho thuê, hay bán đất. Đất chung đã có thể thường chỉ được sử dụng cho những cách sử dụng truyền thống. Đã có những trở ngại to lớn để sử dụng đất theo những cách mà là đáng mong muốn về mặt kinh tế. Quốc hội đã bắt đầu để thay đổi tình trạng này, cho phép các nhóm nhân dân kiến nghị với Quốc hội để đơn giản hóa và tổ chức lại các quyền tài sản, những sự sửa đổi mà sau đó được biểu hiện trong hàng trăm các đạo luật của Quốc hội.
Sự tổ chức lại các thể chế kinh tế cũng được thể hiện trong sự nổi lên của một chương trình nghị sự để bảo vệ sự sản xuất hàng dệt trong nước chống lại hàng nhập khẩu nước ngoài. Không ngạc nhiên, các nghị sĩ và các cử tri của họ đã không phản đối tất cả các rào cản gia nhập và các độc quyền. Những rào cản và độc quyền mà có thể gia tăng thị trường và lợi nhuận riêng của họ được hoan nghênh. Tuy vậy, một cách quyết định, các thể chế chính trị đa nguyên – sự thực rằng Quốc hội đã đại diện cho, đã trao quyền cho, và đã lắng nghe một mảng rộng của xã hội – đã có nghĩa rằng các rào cản gia nhập này sẽ không bóp nghẹt các nhà công nghiệp khác hay sẽ gạt bỏ hoàn toàn những người mới đến, như Serrata đã làm ở Venice (trang 155-156). Các nhà chế tác len hùng mạnh mau chóng phát hiện ra điều này.
Trong năm 1688 một số của các hàng nhập khẩu quan trọng nhất vào Anh đã là hàng dệt từ Ấn Độ, vải in hoa và vải muslin, mà cấu thành khoảng một phần tư của toàn bộ hàng dệt nhập khẩu. Cũng đã quan trọng là lụa nhập từ Trung Quốc. Vải in hoa và lụa được nhập bởi Công ty Đông Ấn, mà trước 1688 đã được hưởng một sự độc quyền do chính phủ ban cho về thương mại với châu Á. Nhưng độc quyền và quyền lực chính trị của Công ty Đông Ấn đã được duy trì nhờ các khoản đút lót lớn cho James II. Sau 1688 công ty ở vào một vị thế dễ bị tổn thương và mau chóng bị tấn công. Việc này được tiến hành dưới hình thức của một cuộc chiến tranh ác liệt của các kiến nghị với các nhà buôn hy vọng để buôn bán ở Viễn Đông và Ấn Độ đòi hỏi rằng Quốc hội thừa nhận sự cạnh tranh đối với Công ty Đông Ấn, trong khi công ty đáp trả với các phản kiến nghị và đưa ra đề nghị cho Quốc hội vay tiền. Công ty đã thua và một Công ty Đông Ấn mới để cạnh tranh với nó đã được thành lập. Nhưng các nhà sản xuất hàng dệt đã không chỉ muốn nhiều cạnh tranh hơn trong buôn bán với Ấn Độ. Họ đã muốn việc nhập khẩu các hàng dệt rẻ tiền (vải in hoa) bị đánh thuế hay thậm chí bị cấm. Các nhà sản xuất này đã phải đối mặt với cạnh tranh mạnh từ các hàng Ấn Độ nhập khẩu rẻ này. Tại thời điểm này các nhà sản xuất nội địa quan trọng nhất đã sản xuất các hàng dệt len, nhưng các nhà sản xuất vải bông đang trở nên ngày càng quan trọng cả về mặt kinh tế lẫn chính trị.
Ngành len đã tăng các nỗ lực để bảo vệ mình ngay từ các năm 1660. Nó đã thúc đẩy “Luật Điều chỉnh Chi tiêu,” mà, giữa những thứ khác, đã cấm việc mặc hay dùng vải có màu sáng hơn. Nó cũng đã lobby Quốc hội để thông qua pháp luật trong năm 1666 và 1678 mà khiến cho là bất hợp pháp để ai đó được chôn cất với bất cứ vải liệm nào khác vải liệm bằng len. Cả hai biện pháp đã bảo vệ thị trường cho các mặt hàng len và đã làm giảm sự cạnh tranh mà các nhà sản xuất Anh đối mặt từ châu Á. Tuy nhiên, trong thời kỳ này Công ty Đông Ấn đã quá mạnh để hạn chế nhập khẩu hàng dệt Á châu. Chiều hướng đã thay đổi sau 1688. Giữa 1696 và 1698, các nhà chế tác len từ miền Đông nước Anh và miền Tây đã liên minh với các nhà dệt lụa từ London, Canterbury và Công ty Levant để hạn chế nhập khẩu. Các nhà nhập khẩu lụa từ Levant, cho dù họ mới mất độc quyền của họ, đã muốn loại trừ lụa Á châu để tạo ra một niche (thị trường ngách độc đáo) cho lụa từ Đế chế Ottoman. Liên minh này đã bắt đầu trình bày các dự luật lên Quốc hội để hạn chế việc mặc vải bông và lụa Á châu và cả về nhuộm và in hoa vải Á châu ở nước Anh. Đáp lại, trong năm 1701, Quốc hội cuối cùng đã thông qua “một Đạo luật cho việc nhận người nghèo vào làm hiệu quả hơn, bằng khuyến khích các ngành công nghiệp của vương quốc này.” Từ tháng Chín 1701, nó đã ra sắc lệnh: “Tất cả lụa đã được chế biến, đồ bengal và chất liệu, pha với lụa làm từ cỏ, được sản xuất ở Ba Tư, Trung Quốc, hay Đông Ấn, tất cả vải in hoa được in, nhuộm, hay được nhuộm màu ở đó, mà được hay sẽ được nhập vào vương quốc này, sẽ không được mặc.”
Bây giờ đã là bất hợp pháp để mặc đồ lụa và vải in hoa Á châu ở nước Anh. Nhưng đã vẫn có thể nhập khẩu chúng để tái xuất khẩu sang châu Âu hay sang nơi khác, đặc biệt sang các thuộc địa châu Mỹ. Hơn nữa, vải in hoa trơn, chưa được in hoa có thể được nhập về và in hoa tại Anh, và vải muslin đã được miễn không bị cấm. Sau một cuộc đấu tranh dài, các lỗ hổng này, như các nhà sản xuất vải len nội địa coi chúng, đã được bịt bằng Đạo luật Vải in hoa năm 1721: “Sau 25-12-1722, sẽ là không hợp pháp đối với bất cứ cá nhân hay các cá nhân nào để sử dụng, mặc ở Vương quốc Anh, trong bất cứ quần áo hay bất cứ đồ dùng nào, bất cứ vải hoa nào được in, vẽ, nhuộm màu hay nhuộm.” Mặc dù đạo luật này đã loại bỏ sự cạnh tranh từ châu Á đối với đồ len Anh, nó vẫn để một ngành công nghiệp dệt bông và lanh nội địa tích cực cạnh tranh với ngành len: sợi bông và lanh pha với nhau để tạo ra loại vải được nhân dân ưa chuộng gọi là vải fustian (bông thô). Sau khi đã loại bỏ sự cạnh tranh Á châu, ngành len bây giờ quay sang để ngăn chặn đồ lanh. Lanh được làm ra chủ yếu ở Scotland và Ireland, mà tạo một cơ hội nào đó cho một liên minh Anh để đòi loại các nước này ra khỏi các thị trường Anh. Tuy vậy, đã có các giới hạn cho quyền lực của các nhà sản xuất len. Các nỗ lực mới của họ vấp phải sự chống đối mạnh mẽ từ các nhà sản xuất vải fustian tại các trung tâm công nghiệp đang nảy nở ở Manchester, Lancaster, và Liverpool. Các thể chế chính trị đa nguyên đã ngụ ý rằng tất cả các nhóm khác nhau này bây giờ đã có sự tiếp cận đến quá trình chính sách ở Quốc hội thông qua bỏ phiếu và, quan trọng hơn, gửi đơn kiến nghị. Mặc dù các kiến nghị được cả hai bên soạn thảo và bay tới tấp, cóp nhặt chữ ký để ủng hộ hay chống đối, kết quả của cuộc xung đột này đã ủng hộ nhóm lợi ích mới và chống lại những người trong ngành len. Đạo luật Manchaster năm 1736 đã đồng ý rằng “một lượng lớn vật liệu được làm bằng sợi lanh và sợi bông giả len đã được chế tạo trong các năm qua, và đã được in và vẽ hoa ở bên trong Vương quốc Anh này.” Rồi nó tiếp tục để khẳng định rằng “không có gì trong Đạo luật [năm 1721] được nhắc đến này sẽ được gia hạn hay được hiểu là để cấm việc mặc hay sử dụng trong y phục, vật liệu nội trợ, đồ nội thất hay đồ khác, bất cứ loại vật liệu nào được làm bằng sợi lanh và sợi bông giả len, được sản xuất và in hay vẽ với bất cứ màu hay các màu nào bên trong Vương quốc Anh.”
Đạo luật Manchaster đã là một thắng lợi quan trọng cho các nhà chế tạo bông mới ra đời. Nhưng tầm quan trọng lịch sử và kinh tế của nó thực ra là lớn hơn nhiều. Thứ nhất, nó đã giải thích các giới hạn của các rào cản gia nhập mà các thể chế chính trị đa nguyên của nước Anh có thể cho phép. Thứ hai, trong nửa thế kỷ tiếp theo, những đổi mới công nghệ trong công nghiệp vải bông sẽ đóng một vai trò trung tâm trong Cách mạng Công nghiệp và biến đổi xã hội một cách cơ bản bằng đưa vào hệ thống nhà máy.
Sau 1688, mặc dù về mặt nội địa đã nổi lên một sân chơi bằng phẳng, về mặt quốc tế Quốc hội đã cố gắng làm nghiêng nó. Điều này đã là hiển nhiên không chỉ từ Đạo luật Vải in hoa mà cả từ các Đạo luật Hàng hải, mà đạo luật đầu tiên trong số đó được thông qua năm 1651, và chúng vẫn còn hiệu lực với những sửa đổi trong hai trăm năm tiếp theo. Mục đích của các đạo luật này đã là để tạo thuận lợi cho việc nước Anh độc quyền hóa thương mại quốc tế – mặc dù một cách quyết định đấy đã là sự độc quyền hóa không phải bởi nhà nước mà bởi khu vực tư nhân. Nguyên lý cơ bản đã là, [hàng hóa] thương mại Anh phải được chở trên các tàu bè Anh. Các đạo luật này làm cho việc các tàu nước ngoài chở hàng hóa từ bên ngoài châu Âu đến Anh và các thuộc địa của Anh là bất hợp pháp, cũng bất hợp pháp tương tự đối với các tàu của nước thứ ba để chở hàng hóa từ một nước châu Âu khác đến Anh. Lợi thế này đối với các thương gia và các nhà chế tạo Anh đã làm tăng một cách tự nhiên các khoản lợi nhuận của họ và có thể đã khuyến khích hơn nữa sự đổi mới trong các hoạt động mới hết sức sinh lời này.
Vào năm 1760 sự kết hợp của tất cả các nhân tố này – các quyền tài sản được cải thiện và mới, hạ tầng cơ sở được cải thiện, một chế độ tài khóa được thay đổi, sự tiếp cận lớn hơn đến tài chính, và một sự bảo hộ hung hăng các nhà buôn và các nhà chế tác – đã bắt đầu có một tác động. Sau thời điểm này, đã có một sự nhảy vọt về số các đổi mới được cấp bằng sáng chế, và sự nở rộ hoa của sự thay đổi công nghệ mà đã là tâm điểm của Cách mạng Công nghiệp đã bắt đầu trở nên rõ rệt. Những đổi mới xảy ra trên nhiều lĩnh vực, phản ánh môi trường thể chế đã được cải thiện. Một lĩnh vực cốt yếu đã là lực năng lượng, nổi tiếng nhất đã là những biến đổi trong sử dụng động cơ hơi nước mà là kết quả của các ý tưởng của James Watt trong các năm 1760.
Đột phá ban đầu của Watt đã là đưa vào một bình ngưng tụ tách biệt cho hơi nước sao cho cylinder mà chứa piston có thể được giữ nóng liên tục, thay cho việc phải được làm nóng lên và làm nguội đi. Sau đó ông đã phát triển nhiều ý tưởng khác, kể cả các phương pháp hiệu quả hơn nhiều để biến đổi chuyển động của động cơ hơi nước thành lực hữu ích, đặc biệt là hệ thống bánh răng truyền động “mặt trời và các hành tinh” của ông. Trong tất cả các lĩnh vực này những đổi mới công nghệ được xây dựng trên các công trình trước của những người khác. Trong ngữ cảnh của máy hơi nước, việc này bao gồm công trình trước của nhà sáng chế Anh Thomas Newcomen và cả của Dionysius Papin, một nhà vật lý học và nhà sáng chế Pháp.
Câu chuyện về sáng chế của Papin là một thí dụ nữa về mối đe dọa của sự phá hủy sáng tạo đã cản trở sự thay đổi công nghệ như thế nào dưới các thể chế khai thác. Papin đã phát triển một thiết kế cho một “máy tiêu hóa hơi nước” trong năm 1679, và trong năm 1690 ông đã mở rộng máy này thành một động cơ có piston. Trong năm 1705, ông đã dùng động cơ thô sơ này để xây dựng tàu hơi nước đầu tiên trên thế giới. Papin khi đó là giáo sư toán học tại Đại học Marburg, ở bang Kessel của Đức. Ông đã quyết định châm hơi nước cho chiếc tàu dọc theo sông Fulda đến sông Weser. Bất cứ tàu thuyền nào đi tuyến này đều phải dừng ở thành phố Münden. Vào thời đó, giao thông đường thủy trên các sông Fulda và Weser đã là độc quyền của một phường hội chủ thuyền. Papin hẳn đã phải cảm thấy rằng có thể có rắc rối. Bạn và người hướng dẫn của ông, nhà vật lý học Đức nổi tiếng Gottfried Leibnitz, đã viết cho Tuyển hầu Kassel, thủ hiến bang, một kiến nghị rằng phải để cho Papin được “… đi mà không bị quấy nhiễu …” qua Kassel. Thế nhưng kiến nghị của Leibnitz đã bị khước từ và ông đã nhận được một câu trả lời cộc lốc rằng “Các ủy viên hội đồng Cử tri đã thấy những trở ngại nghiêm trọng trong cách công nhận kiến nghị trên, và, không đưa ra các lý do của họ, họ đã chỉ thị cho tôi để thông báo với ngài về quyết định của họ, và kết quả là Ngài Tuyển hầu đã không thừa nhận lời yêu cầu.” Không nao núng, Papin quyết định dù sao đi nữa vẫn tiến hành chuyến đi. Khi tàu hơi nước của ông đến Münden, phường hội chủ thuyền đầu tiên đã thử kiếm một thẩm phán địa phương để tịch thu chiếc tàu, nhưng đã không thành công. Sau đó các chủ thuyền đã tấn công tàu của Papin và đã đập tan chiếc thuyền và động cơ hơi nước thành từng mảnh. Papin đã chết trong cảnh nghèo túng và được chôn trong một nấm mồ không được đánh dấu. Trong nước Anh thời Tudor hay Stuart, Papin đã có thể nhận được sự đối xử tương tự, nhưng tất cả đã thay đổi sau 1688. Quả thực, Papin đã có ý định lái tàu của mình đến London trước khi nó bị phá hủy.
Trong luyện kim, những đóng góp then chốt đã được đưa ra trong các năm 1780 bởi Henry Cort, người đã đưa ra các kỹ thuật mới để xử lý các tạp chất trong sắt, cho phép sản xuất sắt được gia công có chất lượng tốt hơn nhiều. Việc này có tính quyết định cho việc chế tạo các bộ phận máy, đinh, và các công cụ. Việc sản xuất lượng khổng lồ sắt được gia công sử dụng kỹ thuật của Cort đã được tạo thuận lợi bởi những đổi mới của Abraham Darby và các con ông, những người đã đi tiên phong trong sử dụng than để nung chảy sắt bắt đầu vào năm 1709. Phương pháp này được nâng cao trong năm 1762 bởi John Smeaton bằng cách thích nghi sức nước để vận hành các cylinder thổi trong sản xuất than coke. Sau đấy, than củi đã biến khỏi việc sản xuất sắt, được thay thế bằng than đá, mà đã rẻ hơn nhiều và sẵn có hơn nhiều.
Cho dù sự đổi mới hiển nhiên mang tính tích lũy, đã có sự tăng tốc rõ rệt trong giữa thế kỷ thứ mười tám. Không có nơi nào có thể thấy rõ hơn trong sản xuất hàng dệt. Hoạt động cơ bản nhất trong sản xuất hàng dệt là là xe sợi, mà bao gồm việc lấy xơ thực vật hay động vật như bông và len, và xe chúng lại với nhau để tạo thành sợi. Sợi này được dệt thành vải, thành hàng dệt. Một trong những đổi mới vĩ đại của thời trung cổ đã là guồng xe sợi, mà đã thay thế việc xe bằng tay. Sáng chế này đã xuất hiện ở châu Âu năm 1280, có lẽ được truyền bá từ Trung Đông. Các phương pháp xe đã không thay đổi cho đến thế kỷ thứ mười tám. Các đổi mới đáng kể bắt đầu trong năm 1738, khi Lewis Paul đã lấy bằng sáng chế về phương pháp mới để xe sợi sử dụng các con lăn thay thế bàn tay người để kéo xơ được xe. Tuy vậy, máy đã không hoạt động tốt, và chính những đổi mới của Richard Arkwright và James Hargreaves đã thực sự cách mạng hóa việc xe sợi.
Trong năm 1769 Arkwright, một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn của Cách mạng Công nghiệp, ông đã lấy được bằng sáng chế về “khung nước,” mà đã là một sự cải thiện khổng lồ so với máy của Lewis. Ông đã lập một hãng với Jedediah Strutt và Samuel Need, những người đã là các nhà chế tạo hàng dệt kim. Trong năm 1771 họ đã xây dựng một trong những nhà máy đầu tiên của thế giới ở Cromford. Các máy đã được cấp năng lượng bởi nước, nhưng Arkwright muộn hơn đã tiến hành bước chuyển quyết định sang năng lượng hơi nước. Vào năm 1774 hãng của ông đã sử dụng sáu trăm công nhân, và ông đã mở rộng một cách hùng hổ, cuối cùng đã dựng các nhà máy ở Manschaster, Matlock, Bath, và New Lanark tại Scotland. Những đổi mới của Arkwright đã được bổ sung bởi sáng chế của Hargreaves trong năm 1764 về máy kéo sợi cơ khí, mà đã được phát triển thêm bởi Samuel Crompton thành “mule-máy kéo sợi,” và muộn hơn bởi Richard Roberts thành “máy kéo sợi tự hoạt động.” Những tác động của các đổi mới này đã thật sự cách mạng: vào đầu thế kỷ, đã cần 50.000 giờ đối với những người xe sợi bằng tay để xe một trăm pound bông. Khung nước của Arkwright đã có thể làm việc đó trong 300 giờ, và máy kéo sợi tự hoạt động trong 135 giờ.
Cùng với cơ giới hóa kéo sợi đến cơ giới hóa dệt. Một bước quan trọng đầu tiên đã là sáng chế ra chiếc thoi bay bởi Jonh Kay trong năm 1733. Mặc dù ban đầu nó đã chỉ làm tăng năng suất của các thợ dệt bằng tay, tác động lâu dài nhất của nó đã là trong việc mở cách để cơ giới hóa sự dệt. Dựa trên con thoi bay, Edmund Cartwright đã đưa ra khung cửi máy (power loom) trong năm 1785, một bước đầu tiên trong một loạt những đổi mới mà dẫn đến các máy thay thế những kỹ năng bằng tay trong việc dệt như chúng đã làm trong kéo sợi.
Công nghiệp dệt Anh không chỉ đã là động lực đằng sau Cách mạng Công nghiệp mà cũng đã cách mạng hóa nền kinh tế thế giới. Hàng xuất khẩu Anh, dẫn đầu bởi hàng dệt bông, đã tăng gấp đôi giữa 1780 và 1800. Chính sự tăng trưởng trong khu vực này đã kéo toàn bộ nền kinh tế lên phía trước. Sự kết hợp của đổi mới công nghệ và đổi mới tổ chức đã cung cấp mô hình cho sự tiến bộ kinh tế mà đã biến đổi các nền kinh tế của thế giới trở thành các nền kinh tế giàu.
Những người mới với các ý tưởng mới đã là thiết yếu cho sự biến đổi này. Hãy xem xét đổi mới về giao thông. Ở nước Anh đã có nhiều làn sóng của những đổi mới như vậy: đầu tiên là các kênh, rồi đường sá, và cuối cùng là đường sắt. Tại mỗi trong các làn sóng này các nhà đổi mới đã là những người mới. Các kênh đã bắt đầu được phát triển ở Anh sau 1770, và vào năm 1810 chúng đã kết nối nhiều trong các vùng chế tạo quan trọng nhất. Khi Cách mạng Công nghiệp mở ra, các kênh đã đóng một vai trò quan trọng trong làm giảm các chi phí vận tải để luân chuyển các hàng hóa công nghiệp cồng kềnh đã hoàn thành, như các mặt hàng dệt bông, và các đầu vào để tạo ra chúng, đặc biệt là bông thô và than cho các máy hơi nước. Các nhà đổi mới ban đầu trong xây dựng các kênh đã là những người như James Brindley, người đã được Công tước xứ Bridgewater tuyển dụng để xây dựng Kênh Bridgewater, mà đã kết thúc với việc kết nối thành phố công nghiệp then chốt Manchester với cảng Liverpool. Sinh ra ở vùng nông thôn Derbyshire, Brindley vốn theo nghề thợ máy xay. Danh tiếng của ông về việc tìm ra các giải pháp sáng tạo cho các vấn đề kỹ thuật đã đến tai công tước. Ông đã không có kinh nghiệm trước nào với các vấn đề giao thông, mà cũng đã đúng với các kỹ sư kênh vĩ đại khác như Thomas Telford, người đã vào đời với tư cách một thợ xây đá, hay Jonh Smeaton, một nhà chế tạo công cụ và kỹ sư.
Hệt như các kỹ sư kênh vĩ đại đã không có quan hệ trước nào với giao thông, các kỹ sư đường bộ và đường sắt vĩ đại cũng không. John McAdam, người đã sáng chế ra tarmac [phương pháp trải mặt đường bằng đá dăm trộn chất kết dính như nhựa đường sau này] vào khoảng 1816, đã là con trai thứ hai của một quý tộc nhỏ. Xe lửa hơi nước đầu tiên được xây dựng bởi Richard Trevithick trong năm 1804. Bố Trevithick đã dính líu đến việc khai mỏ ở Cornwall, và Richard đã tham gia cùng công việc kinh doanh khi tuổi còn non, trở nên bị mê hoặc bởi máy hơi nước được dùng để bơm [nước] khỏi mỏ. Đáng kể hơn đã là những đổi mới của George Stephenson, con trai của cha mẹ mù chữ và nhà sáng chế của xe lửa “Tên lửa” nổi tiếng, người đã bắt đầu làm việc như một thợ máy ở một mỏ than.
Những người mới cũng đã thúc đẩy ngành dệt bông cốt yếu. Một số trong những người tiên phong của ngành mới này đã là những người trước đó đã dính líu sâu trong sản xuất và buôn bán vải len. John Foster, chẳng hạn, đã sử dụng bảy trăm thợ dệt khung cửi tay trong ngành len vào lúc ông chuyển sang dệt bông và mở Nhà máy Black Dyke trong năm 1835. Nhưng những người như Foster đã là thiểu số. Chỉ khoảng một phần năm của các nhà công nghiệp hàng đầu vào thời ấy đã có dính líu trước đó đến bất cứ thứ gì giống các hoạt động chế tạo. Điều này không gây ngạc nhiên. Một là, công nghiệp bông đã phát triển ở các thị trấn mới ở miền bắc nước Anh. Các nhà máy đã là một cách mới hoàn toàn để tổ chức sản xuất. Ngành len đã được tổ chức theo một cách rất khác, bằng cách “đưa” vật liệu cho các cá nhân ở nhà của họ, những người tự mình xe và dệt. Hầu hết những người trong ngành len vì thế đã được trang bị tồi để chuyển sang bông, như Foster đã chuyển. Đã cần đến những người mới để phát triển và sử dụng các công nghệ mới. Sự mở rộng nhanh chóng của ngành dệt bông đã sát hại công nghiệp len – sự phá hủy sáng tạo đang hoạt động.
Sự phá hủy sáng tạo tái phân bổ không đơn giản chỉ thu nhập và của cải, mà cả quyền lực chính trị, như William Lee đã học được khi ông thấy các nhà chức trách đã hết sức không dễ tiếp thu sáng chế của ông bởi vì họ đã sợ các hệ quả chính trị của nó. Khi nền kinh tế công nghiệp đã mở rộng ở Manchester và Birmingham, các chủ nhà máy mới và các nhóm trung lưu nổi lên xung quanh họ đã bắt đầu phản đối sự tước quyền bầu cử của họ và các chính sách của chính phủ chống lại các quyền lợi của họ. Ứng viên hàng đầu của họ đã là các Luật Ngũ cốc, mà đã cấm nhập khẩu “ngũ cốc” – tất cả thóc lúa và ngũ cốc, nhưng chủ yếu là lúa mì – nếu giá xuống quá thấp, như thế đảm bảo rằng lợi nhuận của các địa chủ lớn được giữ ở mức cao. Chính sách này đã rất tốt cho các địa chủ lớn những người sản xuất lúa mì, nhưng xấu cho các nhà chế tạo, bởi vì họ phải trả lương cao hơn để bù cho giá bánh mì cao.
Với công nhân được tập trung vào các nhà máy mới và các trung tâm công nghiệp, đã trở nên dể để tổ chức và gây náo loạn. Vào các năm 1820, việc không cho các nhà chế tạo và các trung tâm chế tác mới hưởng quyền chính trị đã trở nên không biện hộ được. Vào ngày 16-8-1819, một cuộc meeting để phản đối hệ thống chính trị và các chính sách của chính phủ đã được lên kế hoạch tổ chức ở Quảng trường St. Peter, Manchester. Người tổ chức đã là Joseph Johnson, một nhà sản xuất bàn chải địa phương và một trong những người sáng lập tờ báo cấp tiến Manchester Observer. Các nhà tổ chức khác đã bao gồm John Knight, nhà chế tạo bông và nhà cải cách, và John Thacker Saxton, chủ bút của Manchester Obverver. Sáu mươi ngàn người phản đối đã tụ tập, nhiều người đã mang các khẩu hiệu “Nói Không với Luật Ngũ cốc,” “Quyền đi bầu Phổ quát,” và “Bỏ bằng Phiếu” (có nghĩa bỏ phiếu kín, giữ bí mật, chứ không phải công khai như đã xảy ra năm 1819). Các nhà chức trách đã rất lo lắng về cuộc meeting, và một lực lượng sáu trăm kỵ binh của Đoàn Kỵ binh nhẹ Thứ mười lăm đã được tập họp. Khi các bài phát biểu bắt đầu, một thẩm phán địa phương đã quyết định ban hành một lệnh bắt những người phát biểu. Khi cảnh sát thử thi hành lệnh bắt, họ đã vấp phải sự chống đối của đám đông, và cuộc đánh nhau nổ ra. Tại điểm này các kỵ binh tấn công đám đông, Trong vài phút hỗn loạn, mười một người đã chết và có lẽ sáu trăm người đã bị thương. Tờ Manchester Observer đã gọi nó là Vụ Tàn sát Peterloo.
Nhưng căn cứ vào những thay đổi về các thể chế kinh tế và chính trị, sự đàn áp dài hạn đã không là một giải pháp ở nước Anh. Vụ Tàn sát Peterloo vẫn là một sự cố cô lập. Tiếp sau cuộc náo loạn, các thể chế chính trị ở nước Anh đã nhường chỗ cho áp lực, và sự đe dọa gây bất ổn của tình trạng rối ren xã hội rộng hơn rất nhiều, đặc biệt sau cách mạng 1830 ở Pháp chống lại Charles X, người đã thử khôi phục chính thể chuyên chế đã bị Cách mạng Pháp 1789 phá hủy. Trong năm 1832 chính phủ đã thông qua Đạo luật Cải cách Thứ nhất. Nó đã cho Birmingham, Leeds, Manchester, và Sheffield quyền bầu cử, và đã mở rộng cơ sở bầu cử sao cho các nhà chế tạo có đại diện trong Quốc hội. Sự chuyển đổi do hậu quả về quyền lực chính trị đã chuyển dịch chính sách theo hướng ủng hộ các nhóm lợi ích mới được đại diện này; trong năm 1848 họ đã tìm được cách bãi bỏ các Luật Ngũ Cốc bị căm ghét, minh họa lại lần nữa rằng sự phá hủy sáng tạo đã có nghĩa là một sự tái phân bổ không chỉ thu nhập, mà cả quyền lực chính trị nữa. Và một cách tự nhiên, những thay đổi về phân bổ quyền lực chính trị theo thời gian sẽ dẫn đến một sự phân bổ lại thêm nữa về thu nhập.
Chính là bản chất bao gồm của các thể chế Anh là những cái đã cho phép quá trình này xảy ra. Những người chịu thiệt hại và sợ sự phá hủy sáng tạo đã không còn có khả năng để chặn nó lại.
VÌ SAO Ở NƯỚC ANH?
Cách mạng Công nghiệp đã bắt đầu và đã tiến những bước dài ở nước Anh bởi vì các thể chế kinh tế bao gồm độc nhất của nó. Các thể chế này lần lượt lại được xây dựng trên nền móng được đặt bởi các thể chế chính trị bao gồm do Cách mạng Vinh quang gây ra. Cách mạng Vinh quang đã củng cố và hợp lý hóa các quyền tài sản, đã cải thiện các thị trường tài chính, đã làm xói mòn các độc quyền do nhà nước ban cho trong thương mại quốc tế, và đã dỡ bỏ các rào cản đối với sự mở rộng công nghiệp. Cách mạng Vinh quang đã làm cho hệ thống chính trị mở và sẵn sàng đáp lại với các nhu cầu kinh tế và những mong mỏi của xã hội. Các thể chế kinh tế bao gồm này đã cho những người tài giỏi và có tầm nhìn, như James Watt, cơ hội và những khuyến khích để phát triển tài nghệ và các ý tưởng của họ và ảnh hưởng đến hệ thống theo những cách có lợi cho họ và cho quốc gia. Một cách tự nhiên, những người này, một khi họ đã trở nên thành công, đã có cùng những thôi thúc như bất cứ cá nhân nào khác. Họ đã muốn ngăn chặn những người khác khỏi tham gia vào công việc kinh doanh của họ và cạnh tranh chống lại họ và đã sợ sự phá hủy sáng tạo mà có thể loại họ ra khỏi việc hinh doanh, như trước kia họ đã làm những người khác phá sản. Nhưng sau 1688 việc này đã trở nên khó hơn để đạt được. Trong năm 1775 Richard Arkwright đã được cấp một bằng sáng chế bao quát mà ông hy vọng trong tương lai sẽ cho ông một sự độc quyền trong ngành kéo sợi bông đang mở rộng nhanh chóng. Ông đã không thể khiến các tòa án thực thi nó.
Vì sao quá trình độc nhất này đã bắt đầu ở nước Anh và vì sao trong thế kỷ thứ mười bảy? Vì sao nước Anh đã phát triển các thể chế chính trị đa nguyên và đã thoát khỏi các thể chế khai thác? Như chúng ta đã thấy, những diễn biến chính trị dẫn đến Cách mạng Vinh quang được định hình bởi nhiều quá trình được kết nối với nhau. Trung tâm đã là sự xung đột chính trị giữa chính thể chuyên chế và các địch thủ của nó. Kết quả của sự xung đột này đã không chỉ chấm dứt các nỗ lực để tạo ra một chính thể chuyên chế được làm mới và mạnh hơn ở nước Anh, mà cũng đã trao quyền cho những người mong muốn thay đổi một cách cơ bản các thể chế của xã hội. Các đối thủ của chính thể chuyên chế đã không đơn thuần muốn xây dựng một loại khác của chính thể chuyên chế. Đấy đã không đơn thuần là Nhà Lancaster đánh bại Nhà York trong Chiến tranh Hoa Hồng. Thay vào đó, Cách mạng Vinh quang đã kéo theo sự nổi lên của một chế độ mới dựa trên hiến trị [constitutional rule–sự cai trị bằng hệ thống pháp luật] và chủ nghĩa đa nguyên.
Kết quả này đã là một hệ quả của sự trôi dạt trong các thể chế Anh và cách chúng tương tác với các bước ngoặt. Chúng ta đã thấy ở chương trước các thể chế phong kiến đã được tạo ra như thế nào ở Tây Âu sau sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã. Chủ nghĩa phong kiến đã lan khắp phần lớn châu Âu, ở miền Tây và miền Đông. Nhưng như chương 4 đã cho thấy, Tây và Đông Âu đã bắt đầu phân kỳ một cách căn bản sau Cái Chết Đen. Những khác biệt nhỏ trong các thể chế chính trị và kinh tế đã có nghĩa rằng ở Tây Âu sự cân bằng quyền lực đã dẫn đến sự cải thiện; trong khi ở Đông Âu đã dẫn đến sự sa đọa thể chế. Nhưng đấy đã không phải là một con đường mà sẽ nhất thiết và một cách không thể lay chuyển được dẫn đến các thể chế bao gồm. Nhiều sự đổi hướng cốt yếu hơn còn phải được tiến hành trên đường đi. Mặc dù Magna Carta đã thử thiết lập một số nền tảng thể chế cơ bản cho hiến trị, nhiều phần khác của châu Âu, thậm chí Đông Âu, đã thấy những cuộc đấu tranh tương tự với các văn kiện tương tự. Thế nhưng, sau Cái Chết Đen, Tây Âu đã trôi xa đáng kể khỏi Đông Âu. Các văn kiện như Magna Carta đã bắt đầu có sự ăn sâu hơn ở Tây Âu. Ở Đông Âu, chúng trở nên ít có ý nghĩa. Ở nước Anh, ngay cả trước các cuộc xung đột của thế kỷ thứ mười bảy, chuẩn mực được thiết lập đã là, nhà vua đã không thể thu thuế mới mà không có sự đồng ý của Quốc hội. Cũng không kém quan trọng đã là sự trôi dạt chậm, từ từ của quyền lực khỏi giới elite sang các công dân nói chung hơn, như được minh họa bằng thí dụ bởi sự huy động chính trị của các cộng đồng nông thôn, được thấy ở nước Anh với các thời khắc như Khởi nghĩa Nông dân năm 1381.
Sự trôi dạt này của các thể chế bây giờ đã tương tác với một bước ngoặt khác do sự mở rộng ồ ạt của thương mại Đại Tây Dương gây ra. Như chúng ta đã thấy ở chương 4, một cách quyết định mà theo đó điều này tác động đến động học thể chế tương lai phụ thuộc vào liệu Quốc vương đã có thể hay không thể độc quyền hóa sự buôn bán này. Tại nước Anh quyền lực lớn hơn một chút của Quốc hội đã có nghĩa rằng các quốc vương Tudor hay Stuart đã không thể làm vậy. Tình hình này đã tạo ra một tầng lớp mới của các nhà buôn và các nhà kinh doanh, những người đã hùng hổ chống lại kế hoạch để tạo ra chính thể chuyên chế ở nước Anh. Vào năm 1686 ở London, chẳng hạn, đã có 702 nhà buôn xuất khẩu sang vùng Caribe và 1.283 nhà nhập khẩu. Sang Bắc Mỹ đã có 691 nhà buôn xuất khẩu và 626 nhập khẩu. Họ đã thuê những người coi kho, các thủy thủ, các thuyền trưởng, các công nhân cảng, các thư ký – tất cả họ đại thể đều chia sẻ các quyền lợi của họ. Các cảng đầy sinh lực khác, như Bristol, Liverpool, và Portsmouth, cũng tương tự đầy các nhà buôn. Những người mới này đã muốn và đã đòi các thể chế kinh tế khác, và khi họ trở nên giàu có hơn qua thương mại, họ trở nên hùng mạnh hơn. Cùng các lực đó đã hoạt động ở Pháp, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha. Nhưng ở đó các vua đã có khả năng hơn để kiểm soát thương mại và lợi nhuận của nó. Loại nhóm người mới mà đã biến đổi nước Anh cũng đã nổi lên ở các nước đó, nhưng họ đã nhỏ hơn và yếu hơn một cách đáng kể.
Khi Quốc hội Dài họp và Nội Chiến nổ ra năm 1642, các nhà buôn này đã đứng về phe Quốc hội. Trong các năm 1670 họ đã dính líu sâu vào việc hình thành Đảng Whig, chống lại chính thể chuyên chế Stuart, và năm 1688 họ đã đóng vai trò then chốt trong việc hạ bệ James II. Như thế sự mở rộng các cơ hội buôn bán do châu Mỹ biếu tặng, sự tham gia đông đảo của các thương gia vào công việc buôn bán này và sự phát triển của các thuộc địa, và các khoản tiền kếch xù mà họ kiếm được trong quá trình này, đã lật nghiêng cán cân quyền lực trong cuộc đấu tranh giữa nền quân chủ và những người chống chính thể chuyên chế.
Có lẽ cốt yếu nhất, sự nổi lên của, và sự trao quyền cho, các nhóm lợi ích khác nhau – trải từ tầng lớp gentry, các nông dân thương mại mà đã nổi lên trong thời kỳ Tudor, đến các loại khác nhau của các nhà chế tạo cho các nhà buôn xuyên Đại Tây Dương – đã có nghĩa rằng liên minh chống chính thể chuyên chế Sutart đã không chỉ mạnh mà cũng rộng. Liên minh này được tăng cường thậm chí hơn nữa bởi sự hình thành Đảng Whig trong các năm 1670, mà đã cung cấp một tổ chức để đẩy mạnh các quyền lợi của nó. Sự trao quyền cho nó đã làm trụ cột cho chủ nghĩa đa nguyên tiếp sau Cách mạng Vinh quang. Nếu giả như tất cả những người chiến đấu chống lại nhà Stuart đã có cùng quyền lợi và cùng bối cảnh, thì việc lật đổ nền quân chủ Stuart chắc đã có nhiều khả năng [chỉ] là một sự tái diễn của Nhà Lancaster đối lại Nhà York, đưa một nhóm lợi ích hẹp chọi lại một nhóm lợi ích hẹp khác, và cuối cùng thay thế hay tái tạo cùng hay hình thức khác của các thể chế khai thác. Một liên minh rộng có nghĩa rằng đã có những đòi hỏi lớn hơn cho việc tạo ra các thể chế chính trị đa nguyên. Không có một loại nào đó của chủ nghĩa đa nguyên, sẽ có một nguy cơ rằng một trong các nhóm lợi ích khác nhau này sẽ chiếm đoạt quyền lực gây tổn hại cho phần còn lại. Sự thực rằng Quốc hội sau 1688 đại diện cho một liên minh rộng như vậy đã là một nhân tố quyết định trong việc khiến cho các đại biểu Quốc hội lắng nghe các kiến nghị và khiếu nại, ngay cả khi chúng đến từ ngoài Quốc hội và thậm chí từ những người không có quyền bỏ phiếu. Đấy đã là một nhân tố quyết định để chặn các nỗ lực của một nhóm nhằm tạo ra một sự độc quyền gây tổn hại đến phần còn lại, như nhóm lợi ích len đã thử trước Đạo luật Manchester.
Cách mạng Vinh quang là một sự kiện trọng đại chính xác bởi vì nó đã được lãnh đạo bởi một liên minh rộng đã bạo dạn hơn và đã được trao quyền hơn cho liên minh mày, mà đã tìm được cách để tạo một chế độ lập hiến với các giới hạn ràng buộc lên quyền lực của cả nhánh hành pháp và, cũng cốt yếu ngang thế, lên bất cứ thành viên nào của nó. Thí dụ, chính các ràng buộc hạn chế này đã ngăn các nhà chế tác len khỏi trở nên có khả năng nghiến nát sự cạnh tranh tiềm năng từ các nhà chế tác bông và vải fustian (bông thô pha lanh). Như thế liên minh rộng này đã là thiết yếu để dẫn đến một Quốc hội mạnh sau 1688, nhưng nó cũng đã có nghĩa rằng có sự kiểm soát (checks) bên trong Quốc hội chống lại bất cứ nhóm độc nhất nào trở nên quá mạnh và lạm dụng quyền lực của nó. Nó đã là nhân tố cốt yếu trong sự nổi lên của các thể chế chính trị đa nguyên. Sự trao quyền cho một liên minh rộng như vậy cũng đã đóng một vai trò quan trọng trong tính bền bỉ và sự tăng cường của các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm, như chúng ta sẽ thấy ở chương 11.
Thế nhưng chẳng cái nào trong các nhân tố này đã khiến cho một chế độ đa nguyên thật sự chắc chắn xảy ra, và sự nổi lên của nó đã một phần là hậu quả của con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử. Một liên minh mà không quá khác đã có khả năng nổi lên như bên chiến thắng trong Nội Chiến Anh chống lại nhà Stuart, còn liên minh tương tự đã chỉ dẫn đến chế độ độc tài của Oliver Cromwell. Sức mạnh của liên minh này cũng đã không là cái đảm bảo rằng chính thể chuyên chế bị đánh bại. James II đã có thể đánh bại William xứ Orange. Con đường của sự thay đổi lớn về thể chế, như thường lệ, cũng không ít tùy thuộc ngẫu nhiên hơn kết quả của các xung đột chính trị khác. Điều này đã là thế cho dù con đường cụ thể của sự trôi dạt thể chế mà tạo ra liên minh rộng rãi chống lại chính thể chuyên chế và bước ngoặt của các cơ hội thương mại Đại Tây Dương đã sắp đặt trước các con bài chống lại nhà Stuart. Trong trường hợp này, vì thế, sự tùy thuộc ngẫu nhiên và một liên minh rộng đã là các nhân tố quyết định làm nòng cốt cho sự nổi lên của chủ nghĩa đa nguyên và các thể chế bao gồm.
Người dịch: Nguyễn Quang A
Nguồn: Why Nations Fail
THE ORIGINS OF POWER, PROSPERITY, AND POVERTY
Daron Acemoglu and Jemes A. Robinson
Crown Publishers ● New York