Các bài thơ đó, chép rải rác trong hai tập thơ văn: “Quan Đông Hải” và “Minh Quyên thi tập”, nguyên bản chữ Hán, thuộc loại sách cổ sao lục, hiện lưu giữ ở Bảo tàng Khu lưu niệm Nguyễn Du, chưa được kiểm định, phiên dich, xuất bản. Riêng tập Minh Quyên có một bài đã được Hợp tuyển thi văn Việt Nam (TK 18 - 19) phiên âm, dịch nghĩa nhưng chưa có thơ dịch. Số bài trong cả hai tập thơ chỉ được phân chia theo thể loại mà thôi, không có kí hiệu từng bài. Chúng tôi tạm đánh số trang và số thứ tự từng bài, tạo thêm thuận tiện khi cần tra cứu.
QUAN ĐÔNG HẢI (3 BÀI)
Bài 1:
Phiên âm: Tống Thúc phụ Đông các Đại học sĩ phó Nam Kinh (bài 14 Sđd)
Hồng Ngư đa tú khí
Phu tử độc trì danh
Bào mã đương triều quí
Thuần lô cố viên tình
Châu lư phương thuộc vọng
Tinh phái cự đăng trình
Hạo hao Tam Giang thủy
Phong đào tự thản bình
Dịch nghĩa
Tiễn chú là Đông các Đại học sĩ đi Nam Kinh(1)
(Vùng đất) Hồng Ngư(2) có nhiều danh thắng
Phu tử là (một trong những) người nổi danh
Áo bào, ngựa béo, triều đình đang trọng vọng
Rau thuần, cá gỏi(3) vốn quen tình quê cũ
Sống ở thôn quê vẫn là nơi sở nguyện,
Nay cờ quạt đã vội lên đường
Cuồn cuộn nước Tam Giang(4)
Sóng gió tạm phẳng lặng…
Dịch thơ:
Hồng ngư, đất danh thắng
Nơi Phu tử thành danh,
Ngựa xe, triều trọng vọng
Thuần lô, đất nghĩa tình
Thôn quê, vốn sở nguyện
Cờ quạt, vội đăng trình
Nước Tam Giang cuồn cuộn
Sóng gió tạm yên bình
Bài 2
Phiên âm: Hỷ Thúc phụ Thường Tín phủ tri phủ giải quan quy (bài 106 sđd)
Thanh bình, hà sự cố từ quan?
Dũng thoái, tri công ý sở an
Liệt tước, dĩ tòng thiên hạ đắc
Lĩnh danh, ưng vĩ ngã gia hoàn
Bạch Vân bản thị vô tâm xuất
Phi điểu nghi ư vị quyển hoàn
Chỉ nhật, cố viên bồi thắng hội
Tuế hàn tùng cúc tịnh tương khan
Dịch nghĩa:
Mừng chú là Tri phủ phủ Thường
Tín xin từ quan về nghỉ
(Đất nước) đã thanh bình, cớ sao phải từ quan?
Xin về bằng được, ý định của chú(5) là về hẳn để yên nghỉ
(Nói về) chức tước, thì mình cũng đã tạm theo kịp thiên hạ
(Nói về) danh vọng, thì gia tộc mình có thể coi là đã hoàn hảo
Mây trắng xuất hiện, vốn là hiện tượng vô tâm(6)
Chim bay về chỗ, thường khi chưa mỏi cánh
Hẹn ngày quê nhà sẽ có hội mừng
Năm rét, tùng cúc vẫn lặng lẽ (trổ bông) biếc nhìn nhau.
Dịch thơ: Yên bình sao vội xin từ chức?
Ý chú, chi hơn được nghỉ nhà
Chức tước kịp theo cùng bạn lứa
Công danh tạm thỏa với ông cha
Vô tâm, mây lượn bay lơ lửng
Chưa mỏi, chim lường sức vượt xa
Quê cũ hẹn ngày vui hội lớn
Cúc tùng năm rét vẫn đơm hoa
Bài 3
Thướng thúc phụ Đông các học sĩ
(bài 116 sđd)
Phiên âm: Ngô môn tú xuất như Phu tử
Cửu thập cửu phong trung nhất phong
Phẩm tại ngọc đường kim mã quí
Tâm tương mộc thực, thảo y đồng
Giang hồ, long miếu nhiêu song đạo
Thi họa cầm thơ huyến tứ công
Khước vị thuần lô vong bất đắc
Kỷ hà quy khứ tại thu phong
Dịch nghĩa: Thơ dâng chú là Đông các học sĩ
Dòng họ ta xuất hiện được những người như Phu tử(7)
(Cũng như) ngọn núi cao trong chín mươi chín ngọn
Phẩm hạnh rất được quý trọng như Kim mã, ngọc đường(8)
Tấm lòng tốt thì lại tương đồng với vùng cây ăn, cỏ mặc(9)
Giang hồ, long miếu đủ cả hai kênh
Thi họa, cầm thơ giỏi trọn bốn nghề
Nếu vì quên không nổi thú vui rau cần, cá gỏi(10)
Bao giờ ra về đúng mùa gió thu.
Dịch thơ: Họ ta có người giỏi như chú
Đài cao trong chín chín đài cao
Phẩm tuy tôn kính như vàng ngọc
Dạ vẫn tương đồng với cỏ lau
Lang miếu, long hồ hai mặt giỏi
Cầm thơ thi họa bốn nghề sâu
Thú quê thuần vược không quên nổi
Đợi đến bao giờ có gió thu
Minh Quyên thi tập: (1 bài)
Bài 4
Phiên âm: Văn(11) Thúc phụ Lễ bộ Hữu tham tri phó âm(12), cảm tác
Thập cửu niên tiền Tố Như tử (tỉ)
Nhất thế tài hoa, kim dĩ hỹ!
Ngô môn hậu phúc công xả hoàn
Dịch lệ hà năng tốc công tử?
Tam thu luôn lạc thử hành trung
Nam vọng phù vân mỗi ức công
Quy khứ gia sơn văn hạ liệp
Tinh linh hoảng dữ cựu(13) thời đồng
Dịch nghĩa: Cảm tác khi nghe chú là Hữu tham tri bộ Lễ về cõi âm (đã mất)
Trước đây mười chín năm, cái tên Tố Như thật là lộng lẫy
Một đời tài hoa nay bỗng thôi rồi!
Dòng họ ta phúc dày, chú khéo giữ vinh danh trọn vẹn
Đâu phải dịch tệ làm chú mất mau đến thế
Ba năm luân lạc ở thành (Thăng Long) này
Mỗi lần trông về phương Nam thấy đám mây, càng day dứt nhớ chú!
Về quê nhà, đêm văng vẳng đâu đó nghe tiếng người săn đầu xóm núi
Mơ màng thấy tinh linh chú vẫn như ngày trước!
Dịch thơ: Mười chín năm, lừng tên Tố Như
Một đời tài bộ, mất rồi ư?
Nhà ta dày phúc, vinh danh chú
Dịch tệ ra sao? Thật bất ngờ!
Ba năm luân lạc ở thành này
Buồn nhớ về nam, ngóng đám mây
Vẳng tiếng người săn đầu xóm núi
Bồi hồi như có chú đâu đây
(1) Nam Kinh chỉ Kinh đô Huế
(2) Hồng Ngư chỉ vùng đất Nghệ Tĩnh
(3) Rau thuần, gỏi vực: cảnh quê mùa
(4) Tam Giang: Vũng phá ở huyện Phú Lộc, Thừa Thiên.
(5) Phu tử: xin được dịch là Chú để giữ thân tình
(6) Hai câu thơ này lấy ý trong hai câu thơ trong bài từ “Qui khứ lai” của Đào Uyên Minh đời Tống: “Vân vô tâm dĩ xuất trục, Điểu quyển phi nhi tri hoàn” nghĩa là: Mây xuất hiện trên đỉnh núi vì vô tâm; Chim biết bay về vì mỏi cánh (sách cổ văn).
(7) Phu tử: Chỉ Nguyễn Du, dịch là chú
(8) Kim mã, ngọc đường: chỉ những người quyền quý, sang trọng
(9) Mộc thực, thảo y: chỉ nơi đồng ruộng quê mùa
(10) Hai câu cuối lấy ý trong bài Ngẫu hứng của Nguyễn Du in trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Văn học. 1965 – tr183.
(11) Chữ “Văn”: trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam chép Vạn là viếng thăm. Chúng tôi theo nguyên tác.
(12) Phó âm: Hợp tuyển thơ văn (Sđd) viết Phó âm () cũng đồng âm nhưng chưa rõ nghĩa.
(13) Cựu: Hợp tuyển thơ văn (Sđd) viết là “nặng”, không rõ nghĩa. Chúng tôi theo Nt.