Đêm hội sắc Xuân miền Tây Nghệ An được tổ chức hàng năm. Ảnh: Trang Đoan
Với mục tiêu chung là “Khôi phục, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ làm công tác dân tộc, văn hóa, thể thao, du lịch; hỗ trợ cơ sở vật chất, trang thiết bị văn hóa cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để nâng cao mức thụ hưởng về văn hóa cho đồng bào các dân tộc gắn với phát triển du lịch cộng đồng”, Dự án 6 có 19 nhiệm vụ thành phần, bao gồm nhiều lĩnh vực, chính sách hỗ trợ về phát triển văn hóa, thể thao và du lịch vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Sau 5 năm triển khai Dự án 6, hàng trăm mô hình bảo tồn, lễ hội dân gian, câu lạc bộ văn hóa dân tộc đã trở thành nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa bảo tồn di sản và phát triển du lịch cộng đồng bền vững. Nghệ An là một trong những địa phương thực hiện có hiệu quả Dự án 06 với nhiều mô hình, cách làm hay, sáng tạo
Lan tỏa di sản đến cộng đồng
Nghệ An - mảnh đất có thiên nhiên tươi đẹp, hội tụ 6 dân tộc anh em cùng sinh sống, đang sở hữu kho tàng di sản văn hóa phong phú. Với 492 di tích đã được xếp hạng (trong đó có 07 di tích quốc gia đặc biệt, 138 di tích cấp quốc gia, 347 di tích cấp tỉnh) cùng nhiều di sản văn hóa phi vật thể trong đó có: 13 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, 02 di sản được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại (Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh và Tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ), Vườn Quốc gia Pù Mát được UNESCO công nhận là Công viên di sản ASEAN.
Một trong những dấu ấn nổi bật nhất của Nghệ An là khả năng “đánh thức” những giá trị văn hóa đang tiềm ẩn trong cộng đồng. Nghệ An đã tổ chức bảo tồn, phục dựng nhiều lễ hội truyền thống tiêu biểu như: Lễ hội “Đón tiếng sấm đầu năm” của người Ơ Đu, Lễ cúng dòng họ của người Mông, Tết cơm mới của người Khơ Mú, Lễ hội Xăng Khan của người Thái, Lễ Bốc mó của người Thổ…Đây là những di sản mang đậm bản sắc vùng miền và tín ngưỡng dân gian các dân tộc miền Tây xứ Nghệ.

Nghi lễ Xăng Khan của đồng bào Thái
Song song với đó, các mô hình bảo tồn văn hóa phi vật thể đã được triển khai. Có thể kể đến: Nghệ thuật múa khèn của người Mông (các xã thuộc huyện Kỳ Sơn trước đây), trình diễn nghi lễ Xăng Khan, nghề dệt của người Thái (các xã thuộc huyện miền núi và dân tộc thiểu số Nghệ An), Nghề làm dao của người Mông (Mường Lống),… Tất cả đều được phục dựng công phu, gắn với đời sống đương đại của cộng đồng. Đặc biệt, các mô hình bảo tồn văn hoá phi vật thể đã kết nối thành công giữa bảo tồn di sản và du lịch cộng đồng, giúp văn hóa thoát khỏi “khung kính trưng bày” và hòa vào đời sống. Những tour du lịch trải nghiệm mùa lễ hội, nghề thủ công, ẩm thực bản địa… đã mang lại sinh kế thực sự cho người dân bản địa.
Không dừng lại ở đó, Nghệ An còn thúc đẩy mô hình “bảo tàng sống” tiếp cận bảo tồn di sản theo hướng linh hoạt và gần gũi. Mô hình bảo tàng sinh thái cộng đồng được xây dựng tại bản Long Thắng, xã Hạnh Dịch, Nghệ An, nơi không gian sống, sản xuất, lễ hội và phong tục tập quán cùng hiện diện như một “dòng chảy văn hóa sống”.
Song song đó, các nhà văn hóa và khu thể thao thôn, bản được cải tạo; các tủ sách cộng đồng được trang bị tại các xã miền núi. Nhiều đầu sách song ngữ, tài liệu văn hóa bản địa đã đến tay người dân, đặc biệt là giới trẻ, mở cánh cửa tri thức và khơi gợi niềm tự hào văn hóa từ trong gốc rễ.
Phát huy vai trò chủ thể của người dân
Con người luôn là “trụ cột sống” trong công cuộc gìn giữ văn hóa. Nhận thức rõ điều này, Nghệ An đặc biệt chú trọng đến đào tạo, truyền dạy và tôn vinh những “báu vật sống” trong cộng đồng.

Ngày Hội văn hóa các dân tộc Việt Nam năm 2025 được tổ chức tại huyện Nghĩa Đàn cũ
Trong 5 năm, Nghệ An đã tổ chức hàng chục lớp tập huấn chuyên đề, thu hút hơn nghìn lượt người tham gia, bao gồm nghệ nhân, học sinh, sinh viên, cán bộ văn hóa và người dân làm du lịch; Tổ chức Đêm hội Sắc xuân miền Tây, Ngày Văn hóa các dân tộc Việt Nam hàng năm tạo môi trường không gian diễn xướng cho các nghệ nhân và người dân - những chủ thể văn hóa của cộng đồng tham gia sáng tạo các giá trị văn hóa, từ đó khơi dậy niềm tự hào dân tộc và quảng bá bản sắc văn hóa đến du khách trong và ngoài tỉnh. Khảo sát xây dựng sản phẩm du lịch tại các xã miền Tây Nghệ An (vườn quốc gia Pù Mát, Hòn Mát, Phủ Quỳ…); hỗ trợ cải tạo làng, bản văn hóa truyền thống tiêu biểu để phát triển thành sản phẩm du lịch văn hóa cộng đồng (bản Hoa Tiến xã Châu Tiến); tu bổ, tôn tạo các di tích (di tích nhà cụ Vi Văn Khang), bảo tàng (Bảo tàng sinh thái ở bản Long Thắng, xã Hạnh Dịch, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc miền Tây ở xã Quỳ Châu…) trở thành điểm đến tham quan, trải nghiệm, tìm hiểu văn hóa và sinh hoạt văn hóa tâm linh của đồng bào miền núi.
Điểm nhấn nhân văn trong quá trình triển khai dự án chính là việc tôn vinh nghệ nhân, những người thầm lặng gìn giữ và lan tỏa di sản văn hóa phi vật thể. Hàng chục nghệ nhân được hỗ trợ để truyền dạy tại chỗ, hưởng chế độ đãi ngộ phù hợp, được phong tặng danh hiệu chính thức từ Nhà nước, khích lệ tinh thần và giữ gìn tri thức truyền đời. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 79 Nghệ nhân được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu, trong đó: 01 Nghệ nhân Nhân dân; 78 Nghệ nhân Ưu tú. Năm 2025, tỉnh Nghệ An đã xét thẩm định hồ sơ và đang trình Hội đồng cấp nhà nước để trình Chủ tịch nước xét phong tặng danh hiệu cho 03 Nghệ nhân Nhân dân và 47 Nghệ nhân Ưu tú. Nghệ nhân đóng góp tích cực trong công tác trao truyền di sản văn hóa tại cộng đồng.
Đưa di sản trở thành sinh kế của người dân
Không chỉ dừng lại ở việc “bảo tồn để gìn giữ”, Dự án 6 tại Nghệ An đã chứng minh rằng văn hóa có thể trở thành nền tảng phát triển kinh tế, xã hội, nhất là ở những vùng khó khăn. Qua 5 năm thực hiện, Dự án 6 thực sự đi vào lcuộc sống giúp cộng đồng các dân tộc nêu cao ý thức gìn giữ và lan tỏa di sản trong cộng đồng. Tại nhiều địa phương, sau khi triển khai các mô hình bảo tồn, đã hình thành các nhóm dịch vụ du lịch, tổ chức homestay, sản xuất và bán sản phẩm thủ công. Người dân tham gia trực tiếp vào chuỗi hoạt động, từ đón khách đến biểu diễn văn nghệ, nấu ăn, làm hướng dẫn viên. Nhờ vậy, hàng trăm hộ gia đình có thu nhập ổn định, giảm nghèo bền vững (hiện nay trên địa bàn Nghệ An có 25 xóm, bản du lịch cộng đồng, với 69 homestay ở các huyện miền núi trước đây của Nghệ An. Cụ thể: Huyện Kỳ Sơn cũ đây có 2 bản, với 6 homestay; Huyện Tương Dươngcũ có 3 bản, 8 homestay; Huyện Con Cuông cũ có 4 bản, 13 homestay; Huyện Tân Kỳ cũ có 2 bản, 4 homestay; Huyện Quế Phong cũ 2 bản, 7 homestay; Huyện Quỳ Châu cũ có 2 bản, 9 homestay; Huyện Quỳ Hợp cũ 2 bản, 6 homestay; Huyện Anh Sơn cũ có 3 bản, 6 homestay; Huyện Nam Đàn 1 xóm, 3 homestay; Huyện Thanh Chương cũ có 3 xóm, 6 homestay; Huyện Đô Lương cú có 1 xóm, 1 homestay)
Ý thức gìn giữ di sản cũng ngày càng lan tỏa. Nhiều bạn trẻ quay về quê hương học nghề truyền thống, dạy múa dân gian, biểu diễn trống chiêng, làm du lịch cộng đồng, đóng vai trò như những “người gìn giữ mới” trong thế hệ hôm nay.
Nghệ An không chỉ hoàn thành mục tiêu Dự án 6 đã đề ra mà còn đặt nền móng bền vững cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Những bài học từ thực tiễn, từ cách tổ chức, vận động cộng đồng, cách “chuyển hóa” di sản thành sinh kế, đến việc ứng dụng công nghệ số trong bảo tồn, đều sẽ là hành trang quý báu cho chặng đường mới. Khi văn hóa không còn là ký ức cũ mà trở thành động lực phát triển, khi người dân không còn là “đối tượng thụ hưởng” mà chính là chủ thể bảo tồn và lan tỏa di sản, đó là lúc Dự án 6 thực sự đi vào cuộc sống như mạch nguồn ngầm chảy xuyên qua đại ngàn, nâng bước cộng đồng đến tương lai bền vững.
Có thể khẳng đinh, sau 5 năm thực hiện, Dự án 6 không chỉ là việc bảo tồn đơn thuần, mà còn là hiện thực hóa việc phát triển văn hóa đi đôi với phát triển kinh tế. Di sản không nằm yên trong sách vở hay bảo tàng, mà còn được “sống” cùng cộng đồng - nơi chúng được sản sinh.
Dự án đã tạo ra nguồn lực quan trọng trong công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời từng bước biến văn hóa thành động lực kinh tế. Thay vì chỉ dừng lại ở gìn giữ, bảo tồn, văn hóa các dân tộc thiểu số giờ đây đang từng bước được chuyển hóa thành sản phẩm du lịch đặc sắc, giúp tạo sinh kế, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng sống cho người dân.
Bằng cách gắn kết bảo tồn văn hóa với phát triển du lịch, Dự án 6 đã và đang mở ra một hướng đi đúng; phát triển kinh tế từ văn hóa, và ngược lại để văn hóa tiếp tục nuôi dưỡng hồn cốt dân tộc, làm nền tảng, tạo sức mạnh nội sinh để phát triển kinh tế. Hàng trăm mô hình bảo tồn, lễ hội dân gian, câu lạc bộ văn hóa dân tộc đã trở thành nhịp cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa bảo tồn di sản và phát triển du lịch cộng đồng bền vững.
Trong giai đoạn 2026 - 2030, Dự án 6 sẽ được cơ cấu lại thành 14 nhiệm vụ cụ thể, chia thành hai nhóm chính, gồm: nhóm 4 hoạt động đầu tư xây dựng và nhóm 10 hoạt động hỗ trợ.
Nhóm 4 hoạt động đầu tư xây dựng: Bảo tồn làng, bản văn hóa truyền thống; Tu bổ di tích quốc gia đặc biệt của các dân tộc thiểu số; Xây dựng, cải tạo thiết chế văn hóa, thể thao thôn, bản; Hình thành điểm đến du lịch văn hóa tiêu biểu tại các vùng dân tộc thiểu số.
Nhóm 10 hoạt động hỗ trợ: Tổ chức ngày hội, liên hoan nghệ thuật truyền thống; Phát huy lễ hội truyền thống gắn với phát triển du lịch biển, núi; Truyền dạy văn hóa phi vật thể, bảo tồn tiếng nói - chữ viết dân tộc; Xây dựng mô hình bảo tồn gắn với sản phẩm du lịch; Thiết lập hệ thống dữ liệu văn hóa truyền thống của 54 dân tộc; Đẩy mạnh truyền thông, quảng bá văn hóa - du lịch dân tộc.
Mục tiêu của giai đoạn mới là chuyển hóa mạnh mẽ hơn nữa các giá trị di sản văn hóa truyền thống thành các sản phẩm du lịch đặc trưng, có giá trị kinh tế cao, mang bản sắc riêng từng vùng miền. Đây sẽ là chìa khóa mở ra hướng đi bền vững cho du lịch cộng đồng tại các vùng sâu, vùng xa, đồng thời gìn giữ những giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc cho thế hệ mai sau.
Tỉnh Nghệ An kỳ vọng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tiếp tục hỗ trợ, đồng hành để biến kho tàng di sản văn hóa thành các sản phẩm du lịch độc đáo, tạo động lực phát triển kinh tế ban đêm, các lễ hội quy mô lớn, gắn kết cộng đồng và thu hút du khách trong và ngoài nước./.
(Bài đã đăng VHTT Nghệ An số 19 - Tháng 11/2025)