Góc nhìn văn hóa
Xây dựng văn hóa theo giá trị Hồ Chí Minh

Tiết mục "Nhà mế có ảnh Bác" của Đội NTQC thị xã Thái Hòa tham gia Liên hoan Tiếng hát Làng Sen tỉnh Nghệ An năm 2024. Ảnh: Anh Tuấn
Thêm đôi nét về di sản Hồ Chí Minh trong lĩnh vực văn hóa
“Thêm”? Là bởi vì người ta đã đã nói - viết ở nhiều diễn đàn rồi. Ở bài này, tôi chỉ nhấn nhá thêm mà thôi.
Giá trị cuộc đời của Bác Hồ là tài sản tinh thần quý báu của dân tộc. Phải nói ngay và luôn rằng, giá trị đó không phải chỉ để chiêm ngưỡng hoặc lưu - bày ở bảo tàng cho mọi người tham quan, học tập, mà cốt nhất là nhằm làm cho những người Việt Nam yêu nước, từ ấu đến lão; từ nữ tới nam; từ người vùng xuôi đến vùng ngược; từ linh mục, nhà sư đến con chiên, phật tử và những người theo đạo nói chung; từ đất liền đến đảo xa; từ đô thành tới thôn trang; từ trong nước đến người Việt ở nước ngoài có thể học tập, vận dụng và phát triển vào trong cuộc sống. Giá trị của các học thuyết phát triển trên thế gian này đều như thế cả. Không vậy thì đâu có còn được gọi là học thuyết phát triển.
Xứ Nghệ cùng cả nước đang hồ hởi bước vào mùa Xuân mới, mùa Xuân Ất Tỵ, rồi, không ngừng nghỉ, dấn tiếp sang mùa Xuân của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, phấn đấu làm sao đưa nước nhà thành hùng cường, sánh vai các cường quốc năm châu như Bác Hồ hằng mong cũng như đáp ứng được khát vọng cháy bỏng của con dân đất Việt.
1. Bác Hồ là danh nhân văn hóa
Nếu ngài ngại, đắn đo có nên gọi Bác là danh nhân văn hóa thế giới hay không, thì, để cho chắc, để không ai có thể bắt bẻ được, thì gọi nên Bác là “danh nhân văn hóa trong không gian UNESCO”.
Nói cho có đầu có cuối một chút về danh xưng này.
Trong Khóa họp toàn thể lần thứ 24 tại Paris (Thủ đô nước Cộng hoà Pháp) từ ngày 20-10 đến ngày 20-11-1987, UNESCO có một chương trình nghị sự thảo luận, xem xét và cuối cùng đã thông qua Nghị quyết về kỷ niệm (theo chẵn trăm năm) 6 danh nhân, trong đó có phần Nghị quyết 24C 18.6.5 về Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
UNESCO đánh giá Bác Hồ là “Anh hùng giải phóng dân tộc và là nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”. “Của Việt Nam”? Có là “của thế giới” không? Thì đây: Nghị quyết đó được đặt trong đoạn mở đầu mặc định rằng: “Xét thấy việc tổ chức kỷ niệm trên quy mô quốc tế những nhà trí thức lỗi lạc và danh nhân văn hóa là góp phần vào việc thực hiện những mục tiêu của UNESCO và vào sự hiểu biết trên thế giới”. Điều đáng lưu ý nữa là: Nghị quyết 24C18.6.5 này lại là hệ phả, bắt nguồn từ Nghị quyết số 18C/4351 của Khóa 18 Đại Hội đồng UNESCO từ năm 1974 với chủ trương từ đó về sau sẽ “tổ chức kỷ niệm những vĩ nhân và những sự kiện đã để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại”. Như vậy, gọi Bác là “danh nhân văn hóa” hoặc “vĩ nhân”, “nhân vật kiệt xuất”, “nhà trí thức lỗi lạc” thì không có gì là xái cả. Điều này bác bỏ những ý kiến không đúng khi một số người cho rằng, không có chuyện UNESCO ra nghị quyết tôn vinh Hồ Chí Minh và cũng không có chuyện UNESCO công nhận Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới. Còn “thế giới” ở đây được hiểu là đặt trong không gian UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc, viết tắt tiếng Anh: United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization, lập ra từ năm 1945, trụ sở đặt tại Paris). Vào thời điểm bài viết này được đăng, thì UNESCO đã có suýt soát 200 quốc gia thành viên, nghĩa là nó bao quát hầu như tất cả các nước trên hành tinh này rồi[1].
2. Khái niệm “văn hóa”
Có rất nhiều định nghĩa/khái niệm “văn hóa”. Súc tích nhất, thì văn hóa là những gì do con người và vì con người (Nghĩa là những sản phẩm/hay giá trị tốt đẹp do con người tạo ra để phục vụ cho chính con người). Xin lưu ý rằng, không nên gọi sai, chẳng hạn, gọi “văn hóa đen”, “văn hóa đồi trụy”, v.v… Vì, khi đã nói đến giá trị văn hóa thì chỉ nói đến cái tốt đẹp mà thôi; ngược lại với đó thì đích thị phải gọi là những cái phản văn hóa. Lại nữa, không nên lầm lẫn giữa “trình độ học vấn” và “trình độ văn hóa” như trong các bản mẫu khai lý lịch trước đây. Một ông/bà bác học nhưng có khi trình độ văn hóa lại thua người nông dân mù chữ thể hiện trong ứng xử tình làng nghĩa xóm cũng nên.
Có khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng và văn hóa theo nghĩa hẹp. Bác có một số lần nêu khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng. Điển hình nhất là ghi chép lại của Bác tại những trang cuối tập thơ Ngục trung nhật ký, năm 1943. Chắc là sau khi Bác đọc được của ai đó mà Bác tán thành. Đoạn ghi chép ấy như sau:
“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở, và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. Năm điểm lớn xây dựng nền văn hóa dân tộc:
1. Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường.
2. Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.
3. Xây dựng xã hội: Mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của Nhân dân trong xã hội.
4. Xây dựng chính trị: dân quyền.
5. Xây dựng kinh tế”[2]
Từ sự ghi chép của Bác đã dẫn ra trên đây, tôi hiểu luận đề “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi” mà Bác phát biểu thì đó là văn hóa theo nghĩa rộng. Cũng như vậy, theo nghĩa rộng thì văn hóa là nền tảng của xã hội Việt Nam chứ không chỉ riêng là “nền tảng tinh thần” (Trong dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng có thể hiện điều này). Nghiên cứu di sản của Bác, tôi thấy Bác hay dùng cụm từ “cốt cách dân tộc”. Nói thế để thấy được vai trò cực kỳ quan trọng của văn hóa, cần và nên định vị một cách thật chắc trong các luận chứng cho một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của dân tộc Việt Nam. Phát triển văn hóa đã là phát triển ở tất cả các lĩnh vực, chí ít là ở “năm điểm lớn” đã dẫn trên đây, chứ không phải cứ nhăm nhăm vào tăng trưởng GDP (trong phạm vi của một địa phương là GRDP), hoặc cứ nói một cách biệt lập theo kinh tế phiệt là chỉ “thu nhập cao”. Nếu chỉ có thu nhập cao thôi thì chẳng khác gì một anh trọc phú.
3. Ba quan điểm của Bác về xây dựng văn hóa
Quan điểm 1. Cần thấu hiểu vai trò to lớn của văn hóa. Nổi lên 2 điểm lớn: (1) Văn hóa là hồn cốt của một cộng đồng. Nếu để mai một hoặc làm mất bản sắc văn hóa thì tính biểu đạt cộng đồng cũng không còn. Văn hóa như cái căn cước, như cái hộ chiếu để minh chứng trước bàn dân thiên hạ rằng, ta là ta chứ không phải ai khác. Thế nên, trong giai đoạn hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa, chúng ta hay nhắc nhau là hội nhập nhưng không hòa tan; hội nhập nhưng vẫn mang bản sắc dân tộc, hoặc hội nhập để tôn đậm sắc nét thêm bản sắc dân tộc. (2) Văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển. Vì văn hóa hướng tới giải phóng con người. Mọi giải phóng (giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội) đều đi đến mục tiêu cuối cùng là giải phóng con người.
Quan điểm 2. Coi trọng việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc đồng thời tiếp thụ các giá trị văn hóa nhân loại. Ngay từ sớm của chế độ mới nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 23-11-1945, Bác đã ký Sắc lệnh số 65/SL đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc giữ gìn các tài sản văn hóa quốc gia để truyền lại cho muôn đời con cháu về sau. Bác còn chú ý đến việc tẩy trừ di tích của chế độ thực dân - phong kiến; mỗi dân tộc cần chăm lo đến đặc tính dân tộc mình trong nghệ thuật; phải giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của 54 dân tộc anh em (đặc biệt là dân ca, dân vũ, ngôn ngữ, vốn cổ, tình thần đoàn kết cộng đồng, tinh thần yêu nước...).
Bác lưu ý trong việc tiếp thụ văn hóa nhân loại, phải nắm rõ 4 điểm: Một là, phải có tinh thần chọn lọc. Chẳng hạn, Bác cho rằng: “Không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm”[3]; “Phát huy vốn cổ quý báu của dân tộc nhưng tránh phục cổ một cách máy móc”, tránh “khôi phục cả đồng bóng, rước xách thần thánh, quên cả sản xuất, cứ trống mõ bì bõm, ca hát lu bù”[4]. Hai là, phát triển văn hóa dân tộc, nâng lên một trình độ mới. Nếu chỉ dừng lại thì không thể tiến bộ, là thoái lui. Chính vì thế thường người người ta thêm hai chữ “phát triển” vào sau hai chữ “văn hóa” (thành “văn hóa phát triển”). Ba là, coi trọng tiếp thụ chọn lọc giá trị văn hóa nhân loại. Một phóng viên viết trên báo Mỹ Diễn đàn: “Cụ Hồ không phải là người dân tộc chủ nghĩa hẹp hòi mà cụ là một người yêu mến văn hóa Pháp trong khi chống thực dân Pháp; một con người biết coi trọng những truyền thống cách mạng Mỹ trong khi Mỹ phá hoại đất nước của cụ”[5]. Bốn là, quá trình tiếp thụ văn hóa nhân loại cũng đồng thời là quá trình làm giàu thêm, làm phong phú thêm kho tàng văn hóa dân tộc. Bác lưu ý rằng, không nên đóng cửa, không nên bài ngoại, mà phải chọn lọc cái tốt, không lai căng, phải có quan điểm đúng đắn về nhận và cho (về giá trị văn hóa).
Quan điểm 3. Văn hóa là một mặt trận, người hoạt động văn hóa phải là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Bác viết: “Chắc có người nghĩ: Cụ Hồ đưa nghệ thuật vào chính trị. Đúng lắm. Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”[6]. Quan điểm này liên quan đến vấn đề nghệ thuật vị nhân sinh theo tinh thần của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam của Đảng năm 1943: Dân tộc, Đại chúng, Khoa học; đặc biệt là ba điểm đó đang vận hành trên địa bàn Việt Nam trong kỷ nguyên số và 4.0. Bác cũng đặc biệt quan tâm đội ngũ những người hoạt động trên mặt trận văn hóa, bởi vì đây là vấn đề con người, trước khi nói đến nghề nghiệp. Ngày 10-12-1951, có cuộc triển lãm hội họa, Bác không đến thăm được, vậy có thư gửi đến: “Biết tin có cuộc trưng bày, tiếc vì bận quá, không đi xem được. Tôi gửi lời thân ái hỏi thăm anh chị em. Nhân tiện, tôi nói vài ý kiến của tôi đối với nghệ thuật, để anh chị em tham khảo. Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận, Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”[7]. Bác yêu cầu chiến sĩ văn hóa phải: 1/Toàn tâm, toàn ý phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, trước hết cho công nông binh (Phải có trách nhiệm công dân cao); 2/Trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với cách mạng; 3/Phải có bản lĩnh chính trị vững vàng; 4/Chiến sĩ văn hóa “cần hiểu thấu, liên hệ và đi sâu vào đời sống của Nhân dân”[8].
Vài điều về xây dựng văn hóa hiện nay
Cần thẳng thắn nhận định rằng, môi trường văn hóa hiện nay đang bị “ô nhiễm” (bắt chước các nhà khảo sát địa chất “khoan dùi” 4 mũi là thấy rõ ngay: Ma túy hoành hành; bạo lực có phần nổi lên; tội phạm gia tăng; văn hóa chính trị có lúc, có nơi bị trượt xuống).
Vì vậy, cần làm trong sạch môi trường văn hóa đạo đức. Nếu môi trường văn hóa đạo đức bị ô nhiễm thì rất khó hoặc không thể nào xây dựng được văn hóa và con người Việt Nam tốt được, nói như câu ngạn ngữ của nước ngoài: Khó như con lạc đà chui qua lỗ kim. Vậy, xét về mặt nào đó thì môi trường văn hóa đạo đức trong sạch chính là một điều kiện tiên quyết cho cả quá trình xây dựng con người Việt Nam về đạo đức, nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc. Chỉ riêng về mặt công tác cán bộ thôi, một lĩnh vực mà Đại hội XIII của Đảng cho rằng “công tác cán bộ là then chốt của then chốt”[9] thì mấy chục năm gần đây bộc lộ rất rõ tính yếu kém. Ngay trong Đảng, tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, kể cả trong cán bộ cấp cao, diễn ra mà mấy đại hội toàn quốc của Đảng gần đây có nêu nhưng chưa ngăn chặn, đẩy lùi được một cách căn bản. Văn hóa hiện nay phát triển chưa tương xứng với phát triển kinh tế. Do vậy trong đầu tư, cần chú ý cho tương xứng, không như cứ “đầu thừa đuôi thẹo” mới dành cho văn hóa.
Cần chú trọng hơn nữa việc xây dựng gia đình văn hóa. Gia đình ở Việt Nam là một đơn vị văn hóa như Bác đã coi gia đình là “hạt nhân của xã hội” chứ không chỉ là “tế bào” của xã hội như lâu nay chúng ta thường hay nói. Gia đình là một trong 3 chủ thể giáo dục và xây đắp văn hóa (3 chủ thể: Gia đình, nhà trường, xã hội). Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là cần chú trọng hơn nữa chủ thể văn hóa gia đình: Làm việc tốt, việc thiện, gương mẫu. Học tập, làm theo Bác là ở ba điều kiện: Tâm thế chủ động, tích cực; hiểu cho đúng; làm cho phù hợp. Văn hóa là yếu tố quan trọng của “sức mạnh mềm”, cho nên phải chú ý cả ngoại giao văn hóa; phải xây dựng, phát triển công nghiệp văn hóa, trong đó có du lịch văn hóa. Đồng thời, nói đến xây dựng văn hóa hiện nay là trực tiếp nói đến “xây” và “chống”, chống là chống tham nhũng, tiêu cực, đặc biệt là chống “giặc nội xâm” (tham ô, lãng phí, quan liêu) như Bác đã nêu.
Xây dựng con người văn hóa. Các học thuyết phát triển, kể cả tôn giáo, đều có chung một điểm đến: Giải phóng con người. Đương nhiên, mỗi học thuyết đều có nội hàm riêng. Học thuyết Mác-Lênin coi con người là một sinh vật xã hội, tức là sản phẩm của tự nhiên, một chỉnh thể thống nhất giữa yếu tố sinh vật và yếu tố xã hội, con người là tổng hòa của các quan hệ xã hội. Lão giáo coi con người là một tiểu vũ trụ. Và nói chung, những hiểu biết về con người còn rất mù mờ, chưa thấu đạt được bản chất của nó. Đương nhiên rồi, bởi nó được rút ra từ hai quan điểm hoàn toàn khác nhau là vô thần và hữu thần. Chúng như dải phân cách cứng, hai đường song song, lằn ranh theo đó không bao giờ gặp nhau. Con người là sinh vật đặc biệt trong thế giới động vật, có thất tình lục dục và cuộc đời là sự vật lộn đắm chìm trong chúng.
Các học thuyết giải phóng đều chú trọng tới tính nhân đạo, nhân văn. Những quan điểm của Bác cũng vậy. Bác có quan điểm và hành động yêu thương chúng sinh, trước hết là người bị áp bức, những người dễ bị tổn thương trong xã hội (phụ nữ, trẻ em, người già, những người bị tàn tật, v.v…), ngay cả ở trong nội bộ Đảng, Bác còn dặn là “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau” (Di chúc).
Trong xây dựng con người, Bác chú ý phải xây dựng con người có sức khỏe, được giáo dục. Xây dựng con người có đủ sức khỏe cơ bản để làm điều kiện tiên quyết có năng lực trí tuệ và nâng cao năng lực, trí tuệ (sức khỏe được hiểu ở đây không chỉ là thể xác mà còn sức khỏe tinh thần nữa). Trách nhiệm này không chỉ thuộc về ngành y tế nước nhà mà còn của cả hệ thống chính trị, của từng gia đình và cá nhân. Ở đây đòi hỏi cả hệ thống chăm lo về dân số và phát triển, trong đó có cả những nội dung về cải thiện chất lượng nòi giống trong thế so sánh với các nước trên thế giới. Con người được đào tạo một cách đầy đủ, theo bài bản tích cực trong hệ thống giáo dục quốc dân, tiếp cận sự tiến bộ giáo dục quốc tế, đồng thời con người Việt Nam trong thời kỳ này phải tự giáo dục, tự đào tạo (tự học suốt đời). Tất cả những cái đó là vừa để có được những tri thức và kỹ năng cơ bản, cần thiết, phù hợp với từng đối tượng, vừa coi trọng nền tảng cơ bản, vừa coi trọng chuyên sâu.
Con người Việt Nam phải có lòng yêu nước, bắt đầu từ quê hương đến yêu những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Con người phải có đạo đức, theo Bác, đọng lại ở 4 điểm cơ bản nhất: Nhân văn, yêu thương người; Trung với nước, hiếu với dân; Cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; Có tinh thần quốc tế trong sáng. Quan điểm của Bác về chống chủ nghĩa cá nhân đến nay vẫn là thời sự: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”[10].
Phải chăng một trong những cái thiếu hiện nay trong học tập, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là ở chỗ nói và làm, là phải khắc phục cho bằng được 4 biểu hiện: 1/Nói nhiều làm ít; 2/Nói hay làm dở; 3/Nói mà không làm; 4/Nói một đằng làm một nẻo. Nếu làm được như thế thì đất nước ta mới thực sự có mùa Xuân - mùa Xuân của sự phát triển!
(Bài đã đăng VHTT Nghệ An số Tết Ất Tỵ - Tháng 01/2025)
[1] Những câu, những đoạn trích dẫn ở đây liên quan Nghị quyết 24C 18.6.5 của UNESCO là sử dụng từ cuốn sách của các tác giả Mạch Quang Thắng, Bùi Đình Phong, Chu Đức Tính nhan đề: UNESCO với sự kiện tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb CTQG, H, 2013.
[5] Theo Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thống của Nhân dân Việt Nam, Nxb KHXH, H,1990, tr.301.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, T.I, tr.75.
tin tức liên quan
Videos
Chủ tịch Hồ Chí Minh với cuộc tổng tuyển cử đầu tiên bầu Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946
Về với làng Quỳnh - làng cá gỗ
Bia Ma Nhai thành Nam - dấu ấn văn hóa giữ nước đời Trần
Những khoảnh khắc của phụ nữ Thái
Làn sóng Hàn Quốc và bài học phát triển Công nghiệp văn hóa
Thống kê truy cập
114546988

2162

2340

21554

217310

1114325557

114546988