Khách mời văn hóa

Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ: Sáng tỏ những tranh cãi về thời đại Hùng Vương

LTS: Câu chuyện về thời đại Hùng Vương có từ xưa và luôn luôn vẫn là vấn đề được đem ra tranh luận với nhiều ý kiến khác nhau. Vừa rồi, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Hùng Vĩ - nguyên giảng viên trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã trả lời phỏng vấn phóng viên Kinh tế & Đô thị về vấn đề này. VHNA xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

PV (Phóng viên): Nhiều người lấy lý giải khoa học để nói về các vấn đề có hay không tồn tại lịch sử thời vua Hùng. Ông nhìn nhận như thế nào?

NHV (Nguyễn Hùng Vĩ): Câu chuyện này có từ xưa và luôn luôn vẫn là vấn đề được đem ra tranh luận với nhiều ý kiến khác nhau.

Theo tôi, các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam thời nay khá thống nhất trong việc định danh thời đại này bằng bốn chữ “Thời đại Hùng Vương”.

Tôi rất đồng thuận và tôn trọng cách định danh đó. Nhưng tôi cũng ý thức đó là công việc định danh, là một loại biểu hiệu (symbol).

Có thể có những định danh khác, tùy theo góc nhìn khác nhau: “Thời đại Văn Lang - Âu Lạc” (theo quốc danh mà cổ sử đã thường dùng), “Thời đại Lạc Việt” (theo cách gọi một cư dân quan trọng mà cổ sử từng chép), “Thời đại Tiền Việt Mường - Việt Mường chung” (theo kết quả nghiên cứu tài liệu lịch sử ngôn ngữ kết hợp tài liệu khảo cổ), “Thời đại Việt cổ” (gọi theo cư dân mà đa số các nhà nghiên cứu thế giới đang đồng thuận), “Thời đại Phùng Nguyên - Đông Sơn” (gọi theo các văn hóa khảo cổ học đã được nghiên cứu).

Như vậy, định danh một thời đại quá khứ thì có nhiều phương án, chưa kể từ cộng đồng quá khứ đó, các nền sử học ở các quốc gia hiện đại khác nhau sau này có thể định danh theo ngôn ngữ của họ.

Trong khoa học, hoàn toàn có thể định danh thời đại có thật đó một cách trung tính là “Thời đại XYZ”. Lúc này, ta không băn khoăn “Ích xì” là gì?, “Y cà rách” là gì?, “Zét” là gì?.

Việc cứ băn khoăn “Hùng” là gì? “Vương” là gì? “Hùng Vương” là gì?... là cũng rất đáng để tìm hiểu, nhưng trên thực chất, nó không là quan trọng hàng đầu trong việc phủ nhận hay khẳng định một thực tế khách quan là đã có một thời đại đã từng tồn tại những con người, những cộng đồng xã hội rất khác văn minh Trung Hoa thời đó trên một phần lục địa rộng lớn này. Và sau này, văn hóa Trung Hoa, một phức thể lịch sử, cũng đã tiếp biến văn hóa phong phú phương Nam này để làm giàu cho tổng thể văn hóa của họ. Và nếu như họ không biết ơn điều đó thì họ cũng là vong bản mà thôi.

Đã là một biểu hiệu, nhiều khi nó giống như cách định danh “Thời đại hậu công nghiệp”, “Thời đại bốn chấm không” khi trên thế giới này có nhiều cư dân vẫn đang sinh sống với văn hóa nguyên thủy. Nói rằng: Chỉ là một phương án định danh là như vậy.

Cái thời đại có thật trong quá khứ đó có thể thấy:

Về cư dân, giới nghiên cứu lịch sử thế giới hiện nay khá đồng thuận với khái niệm cư dân “Việt cổ”. Đó là tất cả các nhóm tộc người mà cổ sử Trung Hoa thường gọi là Bách Việt mà “bách” là một số nhiều biểu trưng trỏ rất nhiều dân cư, “việt” là vượt qua Ngũ Lĩnh, vượt qua văn minh Trung Hoa cổ xưa về phương Nam. Cư dân này có thể nói rất nhiều nhóm ngôn ngữ khác nhau nhưng đã có những giao lưu văn hóa và văn minh: vừa phân biệt vừa tiếp biến lẫn nhau.

Về không gian, họ tồn tại trên một không gian rộng hơn cả Đông Nam Á hiện nay, phía Bắc lên đến sông Dương Tử, phía Nam đến quần đảo Indonesia, phía Tây hết Malaisia, phía Đông đến tận các hải đảo, lên đến Đài Loan.

Các sưu tập di vật khảo cổ học và nghiên cứu về người “Việt cổ” của thế giới đều tiến hành trên không gian rộng lớn đó.

Về thời gian tồn tại của “Thời đại Hùng Vương”, hiện nay có hai quan niệm chính là cách nay hơn 4.000 năm và cách nay hơn 2.700 năm. Hai quan niệm này khác nhau nhưng thông hiểu nhau và tôn trọng lẫn nhau, không loại trừ nhau. Ở đây không có chuyện anh đúng thì tôi sai hay tôi đúng thì anh sai. Lịch sử có nhiều nghiệm số chứ không chỉ có hai mà thôi.

Quan niệm thời gian hơn 4000 năm là xuất phát từ việc chứng minh tính liên tục văn hóa, liên tục cư dân trên không gian này từ văn hóa khảo cổ học Đông Sơn (- 700 năm - +700 năm) ngược lên văn hóa khảo cổ học Phùng Nguyên (+ - 2.200 năm). Có nghĩa là, con người đã sống và xây dựng các thiết chế xã hội ở đây một cách liên tục hơn 4.000 năm lịch sử.

Quan niệm thời gian hơn 2.700 năm là lấy cái mốc về sự phát triển rực rỡ của văn hóa khảo cổ học Đông Sơn, chứng tỏ một nền văn minh đã khẳng định thành tựu của nó.

Về thiết chế xã hội, dựa trên phong cách nghệ thuật, trên tư duy sáng tạo các di vật tiêu biểu mà trống Đông Sơn là đại diện nhất, dựa trên bản đồ phân bố các di tích khảo cổ, dựa trên so sánh dân tộc học cũng như từ thư cổ đại… thì khiêm tốn nhất, chúng ta cũng có thể khẳng định được, trước khi văn minh “Hoa Hạ” tràn xuống, cư dân Việt cổ đã có những thiết chế bộ lạc và hình thành các liên minh bộ lạc rộng lớn, đang tiến tới hình thành một kiểu quốc gia cổ đại theo một phương thức xã hội nào đó. Có nghĩa là, không thể hình dung xã hội thời đó như là những cộng đồng nguyên thủy sơ khai nữa. Đó đã là một xã hội văn minh.

Các sử gia phong kiến đã nhìn triều đại Hùng Vương, quốc gia Văn Lang bằng lăng kính tư tưởng sử phong kiến. Các sử gia hiện đại, với nhiều phương pháp sử học khác nhau, chủ yếu đọc thông tin từ những cứ liệu khả tin, mang tính vật chất cụ thể của tư liệu khảo cổ học là chính.

Có hay không có thời đại đó là điều không cần bàn cãi, mà vấn đề là tiếp tục nghiên cứu cho đến tương lai rằng thời đại đó như thế nào và những giá trị gì đã truyền lại cho chúng ta hôm nay qua rất nhiều biến thiên lịch sử.

Phủ nhận nó là phủ nhận toàn bộ chứng cứ vật chất khả tin mà sử học thế giới hơn một thế kỷ nay đã không ngừng phát hiện.

PV: Dưới góc độ chính sử và dưới góc độ folklore thì thời đại Hùng Vương được diễn đạt như thế nào?

NHV: Từ thư cổ nhất có lẽ là Giao châu ngoại vực ký (đời Hán, thất truyền) có câu: “Hồi xưa, khi chưa là quận huyện thì Lạc điền theo nước triều lên xuống mà làm ruộng. Dân khẩn ruộng ấy mà ăn gọi là Lạc dân. Lạc hầu Lạc tướng có ấn đồng, quai thao xanh”. Xưa nhất, đoạn này được trích lại trong tác phẩm Thủy kinh chú (Địa lý lịch sử theo các dòng sông) của Lịch Đạo Nguyên (V-VI). Sau này, nhiều từ thư lịch sử đều trích lại. Theo nước triều lên xuống mà làm ruộng thì trước năm 1964, vùng hạ lưu sông Lam (Nghệ An), sông Kiến Giang (Quảng Bình, chỗ phá Hạc Hải) vẫn đang làm, gạo đỏ, cơm cứng, vị ngọt, ăn với nước cáy, ruộng đó gọi là ruộng “gành (ghềnh)”, lúa đó gọi là lúa “bát ngoạt” (bát nguyệt - tháng tám).

Trước 1945, cụ Nguyễn Văn Tố trên Tri tân tạp chí đã có một bài khảo công phu, in trên hai số liền, chứng minh chữ “Lạc” vì tự dạng đã chuyển thành chữ “Hùng” trong quá trình trước thuật và chúng ta có khái niệm “Hùng Vương” sau này. Cho đến nay, tôi vẫn tin vào khảo cứu cẩn trọng của học giả lão thành này.

Tất cả những văn bản đời Tiền Lê (980-1009), Lý (1009-1225) ở Việt Nam còn lại, chúng tôi chưa tìm được dấu hiệu ghi về Hùng Vương và hệ thống triều đại Hùng Vương.

Lĩnh Nam chích quái, định bản đời Nguyễn nhưng có thể tin được sáng tác đầu tiên dưới đời Trần, đã có chuyện Hồng Bàng thị.

Dư địa chí của Nguyễn Trãi (1380-1462), định bản đời Nguyễn, có ghi Kinh Dương Vương, Lạc Long, Hùng Vương và những dòng về phả hệ Hùng Vương.

Đại Việt sử ký toàn thư, bản Chính Hòa 18, có ghi phả hệ Hùng Vương thành mục Hồng Bàng thị trong phần Ngoại kỷ.

Sau này, từ thư và các bộ sử trung đại ghi nhiều hơn về thời đại Hùng Vương. Có cả bản Ngọc phả đền Hùng tương truyền đời Trần nhưng định bản là rất muộn, cần khảo sát thêm mới có thể khẳng định.

Sách xưa thường qua nhiều lần chú sớ, san định, tăng bổ, tục biên, tân đính… nên khẳng định những ghi chép trong đó thuộc ai và lúc nào là việc rất khó khăn.Dần dần, có thể vào cuối đời Nguyễn thì danh mục thế thứ 18 đời Hùng Vương với vương hiệu mới định hình dưới ngòi bút chép sử. Mười tám là một số nhiều ước lệ.

Khi nghiên cứu về đề tài Cổ Loa và An Dương Vương, hai giáo sư nổi tiếng là GS Từ Chi và GS Trần Quốc Vượng khẳng định trong cổ sử, quốc thống Hùng Vương được ý thức như sau này là thành quả của triều Hậu Lê (Lê Lợi mở đầu) trên nhu cầu chứng minh sự độc lập và thống nhất quốc gia có từ thời xa xưa, mục đích khẳng định và cố kết quốc gia dân tộc, chống lại sự xâm lược và tiêu tiêu diệt văn hóa của nhà Minh đối với nước ta lúc đó.

Đọc kỹ Lĩnh Nam chích quái, ta thấy bộ kỳ thư này trước hết là một sưu tập truyền thuyết dân gian. Có nghĩa là, các bậc “quân tử hiếu nhã bác cổ” có tinh thần ái quốc ưu dân thời đó, họ làm cái công việc đúng như các nhà nghiên cứu Folklore ngày nay là đi vào chốn dân dã, sưu tầm những phong tục, những thờ tự, những truyền ngôn dân gian để xây dựng nên tác phẩm nghệ thuật của mình mà Vũ Quỳnh (1452-1516) đã từng nói là “sử trong truyện chăng?”.

Có nghĩa là, với chất liệu Folklore dân gian, họ đã xây dựng nên một hệ thống các biểu tượng cội nguồn dân tộc, cội nguồn quốc gia cho muôn đời cháu con. Câu chuyện Hồng Bàng thị với tính biểu tượng của nó có thể coi đây là quốc kỳ, quốc ca, quốc thiều đầu tiên của quốc gia Đại Việt. Nó là bất tử với lịch sử của chúng ta.

Chính hệ thống mang tính quốc thống này lại mở đầu cho một cuộc tích hợp Folklore hướng tới việc giải thích cội nguồn của quốc gia - dân tộc độc lập.

Khái niệm thời Hùng Vương trong dân gian trở thành một khái niệm phiếm chỉ, nó trỏ một thời gian quá xa xưa, thời gian cội nguồn khó hoặc không thể xác định. Trong chính sử gọi là thời tiền sử hay thuộc Ngoại kỷ. Các câu chuyện, các biểu tượng mà người ta cho là xa xưa nhất, được gán cho là “đời Hùng Vương thứ…”. Thờ núi (Tản Viên sơn thần), chống lũ lụt (Thủy tinh), chặt cây (Mộc tinh), săn cá (ngư tinh), săn thú (Hồ tinh), trồng lúa (Bánh chưng bánh dầy), ăn trầu (Trầu cau), trồng dưa (Quả dưa hấu)… được đặt vào không - thời gian Hùng Vương đều là như vậy. Thông điệp của nó là “ngày xửa ngày xưa…”.

Dân gian là vậy, trong truyền thống truyền thuyết và thần thoại của họ, luôn luôn có một định hướng truy nguyên nguồn gốc mạnh mẽ mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội. Nếu là xã hội bộ lạc thì đó là cội nguồn bộ lạc, nếu xã hội đã hình thành quốc gia phong kiến thì đó là cội nguồn quốc gia.

Cùng với thần thoại và truyền thuyết là lễ nghi và hội hè, là ca hát và diễn xướng dân gian cho mọi biểu tượng. Chúng ta có cả một hệ thống văn hóa vật chất và tinh thần phong phú về biểu tượng thời đại Hùng Vương được xây dựng trong trường kỳ lịch sử mà ngày nay vẫn xây dựng tiếp trong tinh thần thấu hiểu, bảo tồn, phát triển và quảng bá. Thờ Hùng Vương lan tỏa khắp các tộc người, ra cả nước ngoài và được UNESCO công nhận là một di sản phi vật thể nhân loại.

Ở góc độ chính sử phong kiến, họ mang tư tưởng sử phong kiến kết hợp với tư duy suy nguyên dân gian để muốn khẳng định một cội nguồn xa xưa. Tinh thần ái quốc là không thể phủ nhận nhưng phương pháp khoa học chưa phát triển. Và ngay cả khi khoa học lịch sử đã phát triển th việcì nhìn (vision) thật xa về quá khứ cũng như thật xa về tương lai, ta cũng sẽ bắt gặp một vùng chưa minh định, gọi là vùng mờ tối.

Không ai có thể nói là đã biết hết tất cả quá khứ cũng như tương lai khi nó quá xa vời. Cái vùng mờ xa của quá khứ, trong thần thoại học gọi là biểu tượng Khaox. Các bộ sử của mọi quốc gia đều viện dẫn thần thoại về gốc tích của mình. Chính sử trung đại Việt Nam không nằm ngoài quy luật thông thường đó, không là “cá biệt”. Thời Hùng Vương đối với họ là một tập hợp huyền thoại. Điều đó cũng giống như chúng ta nghĩ về tổ tiên gia đình mình: Đâu là tận cùng vậy?.

Chính sử hiện đại phân biệt đâu là truyền thuyết dân dã thì viết rõ là truyền thuyết dân dã, đâu là sự thật khách quan thì lý giải sự thật khách quan để đăm đắm ngày đêm đi tìm sự thật quá khứ xa xưa, mỗi ngày một ít để minh định dần dần cái vùng mờ tối huyền hoặc trong tư duy cộng đồng đó.

PV: Những di vật nào của khảo cổ học có giá trị nhất để chứng minh lịch sử Thời đại Hùng Vương?

NHV: Quá nhiều và quá phong phú. Di chỉ cư trú, mộ táng, hang động, binh khí, nhạc cụ, công cụ, hài cốt, lò đúc đồng, đồ đá, đồ gốm, đồ đồng, đồ sắt, phấn hoa, nền bếp, tre gỗ, dấu hiệu ký tự (chứ không phải dấu hiệu văn bản của một “hệ thống chữ viết”, hai cái này khác nhau. Ký tự có thể có ở nhiều tộc người nhưng để phát triển thành “hệ thống chữ viết” thì đó là cả một quá trình, một cơ hội lịch sử mà không phải dễ dàng hội tụ đủ yếu tố).

Khảo cổ học thế giới đã có những sưu tập cực lớn các di vật được coi là của người “Việt cổ” từ sông Dương Tử đến Indonesia.

Mỗi thứ đều đưa lại những thông điệp về “Thời đại Hùng Vương” theo quan niệm sử học của chúng ta.

Nhưng trong đó, trống kim khí Việt cổ mà chúng ta đề xuất tên gọi là Trống Đông Sơn (theo khái niệm văn hóa khảo cổ học Đông Sơn, phát hiện đầu thế kỷ XX) là hiện vật tập trung thông tin nhiều nhất, tiêu biểu nhất, tinh hoa nhất của “Thời đại Hùng Vương”.

Tiếp xúc trống đồng, ta gặp ngay phong cách tạo tác vật dụng thường nhật của một cư dân quen đan lát vật liệu sợi: tre, nứa, mây, dang, trúc, mai, vầu… ở Đông Nam Á, khác hẳn phong cách quen dùng tấm gỗ của phương Bắc trên thố thạp của họ. Đó là cội nguồn phong cách đồ đồng Đông Sơn.

Tiếp xúc với nó, ta gặp một cư dân đã thạo nung nấu đồ gốm trong cuộc sống.

Và tiếp xúc với nó, ta ngạc nhiên trước một kỹ thuật đúc hợp kim đồng đã khá phát triển.

Trống đồng là một khí cụ thông tin mà bán kính truyền thông của nó vang đến các bộ lạc tương đồng văn hóa khác.

Với tư cách là một nhạc khí, nó là nhạc khí cộng đồng âm vang chứ không hề là nhạc khí trữ tình nỉ non. Nó là nhạc khí của lễ hội rộn rã. Sự phát hiện trống đồng khắp nơi trên địa bàn rộng lớn chứng tỏ một đời sống lễ hội rất phong phú đã diễn ra trong đời sống văn hóa Thời đại Hùng Vương. Lễ hội là một môi trường thuận lợi nhất cho mọi trình diễn văn nghệ cộng đồng, văn nghệ dân gian.

Trống đồng có giá trị kinh tế cực cao từ hồi cổ sơ mà từ thư còn ghi lại, nó chứng tỏ sự giao lưu và tích lũy kinh tế bộ lạc đã phát triển, đó là một xã hội văn minh.

Trống đồng là biểu tượng cho quyền lực thủ lĩnh, cho hình bóng những ông vua cổ đại của quốc gia liên minh bộ lạc sơ khai hình thành.

Hình ảnh trực quan được trên trống không chỉ miêu tả sống động đời sống lễ hội: thờ mặt trời, thờ vật tổ, làm nhà, săn bắn, chèo thuyền, hiến tế, cầu mưa, cầu mùa, đúc trống, đánh trống…mà hơn hết, nó phản ánh một tư duy nghệ thuật hoành tráng, nghệ thuật sử thi.

Xem kỹ, chúng ta bắt gặp kiểu tư duy của ngôn ngữ trật tự từ sơ khai qua việc nối kết các “từ vựng - hình ảnh” trong diễn đạt “ngữ pháp - tư duy” nối kết các “thực từ”. Các câu chuyện, các sử thi sẽ trình diễn bằng ngôn ngữ đó. Cái mà ngày nay chúng ta còn nghe được qua diễn xướng sử thi Mường, Thái, Môn-Khmer…

Một tư duy hệ thống hóa qua đồ án lặp lại trên nhiều trống phản ánh vũ trụ quan và mối kết liên cấp độ liên minh bộ lạc của thiết chế xã hội “Thời đại Hùng Vương”.

Trống đồng là một biểu tượng bậc nhất cho văn hóa, văn minh thời đại đó.

PV: Niềm tin tín ngưỡng đôi khi có phải dựa hoàn toàn vào các chứng cứ khoa học hay không? Hay niềm tin ấy có giá trị đoàn kết sức mạnh gắn kết người dân và đó cũng là tín ngưỡng đáng tôn vinh?

NHV: Tín ngưỡng - khoa học - tín ngưỡng - khoa học - tín ngưỡng… Đó là một chuỗi bất tận của tinh thần nhân loại.

Đôi khi, tín ngưỡng nghiêng về phía tâm hồn, khoa học nghiêng về phía lý trí. Nhưng hai cái đó không đối lập nhau.

Nhiều tín ngưỡng gợi ý, tạo nên dự cảm cho khoa học, đến lượt những phát kiến khoa học tạo nên niềm tín ngưỡng mới. Có những nhân cách khoa học yêu khoa học của mình đắm đuối cả tâm hồn, đó là tín ngưỡng của họ. Cũng có những người không hiểu cụ thể về khoa học đó nhưng trước một biểu tượng khoa học, ta tín ngưỡng như thần thánh. Mỗi lần xem bức ảnh Anhxtanh, nhiều người có cảm giác đó dù không hiểu thành tựu ông làm được.

Và thế là cả tín ngưỡng và khoa học giúp ta kết lại với nhau trong cộng đồng nhân loại này. Cộng đồng một dân tộc cũng vậy.

Cả khoa học và tín ngưỡng đều đáng trân trọng, tôn vinh. Trong khoa học cũng đầy rẫy những trải nghiệm sai lầm và trong tín ngưỡng cũng đủ những yếu tố mê tín, mê muội.

Khi nghiên cứu “Thời đại Hùng Vương” để minh định lịch sử, nhà nghiên cứu phải làm với một thái độ đầy ngưỡng vọng, mang một tâm hồn nghệ sĩ để đồng cảm với nghệ nhân xa xưa qua các di vật, để thổn thức cùng tâm thức kính ngưỡng của cộng đồng với cội nguồn trong trẻo. Các nhà khảo cổ học Việt Nam, khi mở một hố khảo cổ, vẫn thường cung kính thắp nén hương đó thôi.

Giữa tín ngưỡng và khoa học, còn nghệ thuật nữa cơ mà. Một bài toán đẹp cũng rung động chúng ta như một câu thơ hay, một đường bóng khéo vậy.

Thầy tôi là GS Trần Quốc Vượng dạy rằng, sử học là một “môn học”, nó rộng lớn hơn là một “khoa học” vì nó chứa đựng trách nhiệm, tâm hồn và cá tính.

Chúng ta trân trọng quá khứ vì nó là tổ nả của chính mình.

PV: Ông đánh giá như thế nào về cách thờ cúng Hùng Vương của người Việt?

NHV: Bắt đầu từ căn nguyên tri ân công cha nghĩa mẹ, sống tết chết giỗ, rồi đến tục thờ cúng tổ tiên. Đó là đạo hiếu tự nhiên của con người. Rồi đến là gì nhỉ? Ngày xưa Bác Hồ nói: “Trung với nước, Hiếu với dân”.

Khi hình thành quốc gia dân tộc, khi có lịch sử quốc gia thì tinh thần ấy mở rộng. Tổ tiên một gia đình, một dòng họ cũng như tổ tiên một quốc gia, một nhân loại. Cứ thế thôi.

 

Lễ hội đền Hùng - Giỗ Tổ HÙng Vương năm 2019

Giỗ tổ Hùng Vương được công nhận cuối thời Lê là “quốc tế”. Cuối thời Nguyễn, năm 1917 đẩy lên về quy mô mà văn bia năm 1940 còn ghi lại. Và cũng vào đầu thế kỷ hai mươi xuất hiện bài ca dao: Dù ai đi ngược về xuôi/Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba/Khắp miền truyền mãi câu ca/ Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.

Kỳ lạ là, ngày 18 tháng 2 năm 1946, giữa muôn vàn công việc của một chính phủ mới thành lập được 4 tháng rưỡi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh của Chủ tịch nước số 22/SL-CTN cho công chức nghỉ ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm để tổ chức các hoạt động giỗ tổ Hùng Vương. Một ý thức lịch sử vô cùng sâu sắc và thực tế, đến hiện đại từ truyền thống.

Ngày nay vẫn đang tiếp tục truyền thống đó và phát triển mạnh mẽ.

Tuy nhiên, có hai điều cần bàn bạc với nhau.

Thứ nhất, đó là sự trật tự và kiệm ước. Cần những kịch bản lễ hội tốt nhất, hợp lý nhất, bảo đảm an ninh trật tự nhất cho nhân dân.

Thứ hai, chúng ta đang bối rối trong những sáng tạo. Đã có những công trình kiến trúc, đã có những công trình điêu khắc nhưng các loại hình khác như lễ hội, sân khấu, điện ảnh, vũ đạo, văn chương… hình như chưa được chú trọng phát huy. Tôi yêu bài hát Dòng máu Lạc Hồng của tác giả Lê Quang thật hùng tráng, nhưng nó còn đơn độc quá.

Trên một hệ truyền thuyết dày dặn như một kho tài nguyên tinh thần quá khứ để lại, chả nhẽ chúng ta không đóng góp được thêm để dành cho tương lai về biểu tượng “Thời đại Hùng Vương” chăng? Sử học làm công việc thấu hiểu, bảo tồn. Nghệ thuật làm công việc phát triển và quảng bá. Hôm nay sẽ là truyền thống của mai sau. Tôi nghĩ là đến lúc chúng ta sẽ làm tốt.

                                                                      Hà Nội 9/4/2019.

 

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114434743

Hôm nay

214

Hôm qua

2349

Tuần này

21393

Tháng này

211791

Tháng qua

1114316576

Tất cả

114434743