Góc nhìn văn hóa

Triết học Mỹ: Thuyết siêu việt

Trong số những phát triển khác nhau của nửa đầu thế kỷ thứ mười chín, thuyết siêu việt đóng vai trò quan trọng nhất với triết học và đời sống văn hóa chung của đất nước. Giống như thời Khai minh ở Mỹ, nó là một bộ phận của phong trào toàn thế giới, đó là chủ nghĩa lãng mạn đầu thế kỷ XIX. Ở Hoa Kỳ, đặc biệt là ở New England, nó có thể được hiểu trước hết là một phần của phản ứng chống lại thuyết Calvin, phát triển từ thuyết Nhất vị , và một phần là phản ứng chống lại một loại thuyết duy lý do thời Khai minh đại diện, mặc dù, như đã lưu ý ở trên, chính trong ở một số khía cạnh dưới những hoàn cảnh đặc biệt ở Mỹ, nó được tiếp tục. Chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn Đức và Anh, của Jean-Jacques Rousseau, một phần nào đó của các nhà duy tâm Đức sơ kỳ (đặc biệt là Kant, thường được giới thiệu cho độc giả Mỹ bằng loại sách “hỗ trợ suy tư” của người Anh, chẳng hạn như công trình cùng tên của Coleridge), thậm chí bằng triết học và tôn giáo phương Đông, thuyết siêu việt hầu như không phải là một phong trào có nguồn gốc từ triết học. Tuy nhiên, thật đúng khi nói rằng thuyết siêu việt có nguồn gốc bản địa của nó. Thuyết siêu việt tương ứng với nhu cầu và khát vọng của thế hệ mình và những ý niệm mà nó tiếp thu từ châu Âu thường là những gì nó đã phấn đấu để xây dựng cho chính mình. Như Vernon L. Parrington đã nói:

“Thuyết siêu việt là một đức tin hơn là triết học, nó mang tính tiên tri hơn là tư biện, khẳng định hơn là đặt câu hỏi, và nó đến với triết học Đức để tìm thấy sự xác nhận đức tin, không phải để kiểm tra lại những nền tảng của mình”.

Các đại diện hàng đầu của phong trào này là: William Ellery Channing (1780-1842), mà tác phẩm Unitarian Christianity của ông đánh dấu ông là đối thủ của thuyết Calvin và là người mở đường của phong trào mới; Theodore Parker (1810-1860), một giáo sĩ theo thuyết Nhất vị khác, một trong những con người uyên bác nhất của thời mình và là một trong những người tích cực nhất trong phong trào chống nô lệ và các phong trào cải cách khác; Ralph Waldo Emerson (1803-1882); Henry David Thoreau (1817-1862); Bronson Alcott (1799-1888); George Ripley (1802-1880); Orestes A. Brownson, sau này cải đạo sang Công giáo và là cây viết triết học và luận chiến Công giáo nổi tiếng nhất của nước Mỹ thế kỷ XIX; Margaret Fuller và các chị em Peabody. Các nhà văn nổi tiếng Walt Whitman (1819-1892) và Herman Melville (1819-1891), cũng như Henry James, Sr., bạn của Emerson, một nhà tư tưởng tôn giáo và triết học mà người ta không phân biệt được với hai người con trai nổi tiếng, chịu ảnh hưởng bởi phong trào này. Chúng ta cũng nên đề cập đến James Marsh, Caleb Sprague Henry và Frederick Henry Hedge.

Chính những tên tuổi của các nhà siêu việt đã cho thấy sự đa dạng của phong trào này. Và chính cái tên thuyết siêu việt, (transcendentalism), mặc dù phần nào là không chính danh, nhưng lại thích hợp ít nhiều cho “giấc mơ của con người” tin rằng con người có thể đạt được mục tiêu vượt ra ngoài tầm hiểu biết của thuyết duy cảm giác gắn liền với trần thế. Chúng ta không thể hiểu thuyết siêu việt một cách đúng đắn nếu ta xem nó quá hẹp dưới dạng một triết học, dù là triết học Kant hay một triết thuyết nào khác. Nó không phải là một hệ thống triết học mà là một thái độ của tinh thần, đó là niềm tin vào sự thiêng liêng cư ngụ trong tự nhiên và trong linh hồn, niềm tin vào những khả thể vô hạn vốn có trong mối quan hệ này. Ý nghĩa của nó không chỉ nằm ở tầm nhìn triết học về con người và thế giới, mà còn ở cương lĩnh của nó dành cho sự hoàn thiện cá nhân và sự canh tân của xã hội. Những lời của Theodore Parker biểu hiện mục tiêu của các nhà siêu việt:

“Vấn đề của triết học siêu việt không gì khác hơn là xem xét lại kinh nghiệm của nhân loại và thử thách những học thuyết của nó bằng bản tính của nhân loại; là kiểm tra đạo đức bằng lương tâm, khoa học bằng lý tính; thử thách các tín điều của các giáo hội; hiến pháp của các quốc gia bằng hiến pháp của vũ trụ; là đảo ngược điều sai, cung cấp điều còn thiếu, và chủ trì công đạo”.

Giấc mơ của con người về triết lý siêu việt là một giáo hội không chuyên chế; một xã hội không có sự ngu dốt, thiếu thốn hay tội ác; “một thế giới không có chiến tranh giữa các quốc gia để tiêu hủy sạch sản phẩm do bàn tay họ làm ra”. Trong những lời đoán trước tư tưởng của James và Dewey sau này, Parker nói rằng triết học của mình (không giống như triết học duy cảm mà chủng tộc Anglo-Saxon có khuynh hướng cố chấp đi theo) hướng về tương lai, một tương lai sẽ phải được thực hiện. Giấc mơ có bao giờ trở thành sự thật hay không? “Lịch sử nói không; bản tính người nói có”. Xét như một triết học tư biện, thuyết siêu việt đại diện cho một thuyết duy tâm gần Kant hơn là Berkeley. Thật vậy, các thành viên của Câu lạc bộ siêu việt Boston thừa nhận sự mang ơn của họ đối với nhà hiền triết ở Königsberg. Như Emerson đã nói trong luận văn của mình, “Nhà siêu việt”

“Cái được gọi phổ biến là thuyết siêu việt của chúng ta, là thuyết Duy tâm; thuyết Duy tâm như nó xuất hiện vào năm 1842. Là những nhà tư tưởng, nhân loại đã từng chia rẽ thành hai phái, các nhà duy vật và các nhà duy tâm; loại thứ nhất dựa vào kinh nghiệm, loại thứ hai dựa vào ý thức; loại thứ nhất bắt đầu tư duy từ dữ liệu của các giác quan, loại thứ hai nhận thấy rằng các giác quan không phải là tối hậu và nói rằng, các giác quan mang đến cho chúng ta các hình ảnh biểu tượng về sự vật, nhưng không thể cho ta biết tự thân các sự vật ấy là gì. . .

Phần lớn cử tọa của tôi đều biết rằng thuyết duy tâm ngày nay có được cái tên “Transcendental” (“Siêu việt”, đúng ra là “siêu nghiệm”. ND) từ việc sử dụng thuật ngữ đó (“siêu nghiệm”) của Immanunal Kant ở Königsberg, người đáp lại triết học hoài nghi của Locke, vì Locke đã nhấn mạnh rằng không có gì trong giác tính mà trước đó không có trong kinh nghiệm của các giác quan, bằng cách cho thấy rằng có một lớp ý niệm rất quan trọng hay các hình thức mệnh lệnh, không đến từ kinh nghiệm, mà thông qua đó kinh nghiệm mới đạt được; rằng chúng những trực giác của bản thân tâm trí; và ông gọi tên chúng là những hình thức hay mô thức siêu nghiệm. Sự sâu sắc và chính xác phi thường của suy nghĩ đó của con người làm cho việc gọi tên đó của ông được ưa chuộng, ở châu Âu và Mỹ, đến mức mà bất cứ điều gì thuộc về loại tư duy trực giác, ngày nay đều được gọi chung là Transcendental(“Siêu việt”)”.

Tất nhiên, sự hiểu lầm về chính thuật ngữ transcendental(của Kant. ND) đã tiết lộ tri thức không sâu sắc về Kant của những người theo thuyết siêu việt của Mỹ. Đối với Kant, transcendental (siêu nghiệm) đại diện cho các điều kiện chủ quan, tiên nghiệm của mọi kinh nghiệm. Nó chỉ các phạm trù tiên nghiệm của tư duy áp đặt vào cho cái đa tạp của kinh nghiệm giác quan để mang lại cho nó ý nghĩa và tính quan yếu khoa học. Ngược lại, thuật ngữ siêu việt (transcendent) lại có nghĩa là tất cả những gì nằm bên ngoài phạm vi của nhận thức; nó đại diện cho sự tư biện siêu hình học, tức hiểu biết thuần túy trí tuệ, tư duy mà không có ý nghĩa. Không may thay, trong tiếng Anh, từ transcendental (siêu nghiệm) lại được sử dụng như một từ đồng nghĩa với transcendent (siêu việt) , và kết quả là sự phân biệt của Kant giữa hai thuật ngữ này đã bị mất đi.

Mặc dù sự phê phán này đối với thuyết siêu việt của Mỹ là đúng từ quan điểm kỹ thuật nghiêm ngặt, song cũng có nhiều sự thật trong nhận xét - của Santayana - rằng Emerson đã thực hành phương pháp siêu nghiệm trong sự tinh khiết của nó, có lẽ nhiều hơn bất cứ ai trước đó. Ở mức độ mà người Mỹ đạt được chủ nghĩa siêu việt của họ một cách độc lập, như Santayana tin tưởng (mặc dù thừa nhận là mang ơn triết học phê phán của Kant) và ở mức độ mà phương pháp transcendental là một thuyết duy chủ thể được hệ thống hóa, thì Emerson là một nhà siêu việt luận đích thực và là một nhà tư tưởng quan trọng.

EMERSON, NHÀ THẤU THỊ VÀ NHÀ HIỀN TRIẾT

Tính cách chung. Trong mắt của thời đại ông, trong và ngoài nước, và trong mắt của hậu thế, “Nhà hiền triết của Concord”, Ralph Wald Emerson, là nhà triết học đại diện không chỉ của thuyết siêu việt mà còn của nước Mỹ thế kỷ XIX. Là một người gốc Boston và tốt nghiệp đại học Harvard, Emerson xếp vào hàng dài các thánh của đạo Tin lành và bản thân ông là một giáo sĩ theo thuyết Nhất vị từ lúc khởi đầu sự nghiệp của mình. Tuy nhiên, cuối cùng ông đã từ bỏ tín điều khá tự do này và trở thành một người viết lách. Ông vẫn luôn giữ lại chút gì đó của con người giảng đạo và, mặc dù yêu sự cô độc và chiêm nghiệm, ông sẵn sàng bước tới bục giảng, và qua nhiều năm đi qua nhiều vùng của đất nước trên các cung đường Chautauqua và nhiều cung đường tương tự.

Emerson, người đã thúc giục chúng ta suy nghĩ bằng chính tư duy của mình và cất lên “tuyên ngôn độc lập của trí thức” Hoa Kỳ trong diễn văn Phi Beta Kappa năm 1836, “Học giả Hoa Kỳ”, đã mang ơn sâu sắc các nhà hiền triết và nhà tiên tri ở mọi lứa tuổi và miền đất. Tất cả mọi điều, như Tập san của ông tiết lộ đầy đủ, đều có lợi cho ông. Nhưng nếu tính độc đáo không phải là một biểu hiện của tư duy hoàn toàn mới (một điều gần như không thể) cho bằng là một biểu hiện của minh triết và chân lý sâu hơn và được thốt ra khéo léo hơn bao giờ hết, Emerson có sự độc đáo riêng của mình. Ông nghiền ngẫm về những gì ông đã hấp thụ, ông trầm ngâm và hòa đồng với thiên nhiên khi đi dạo bên hồ Walden, ông trông đợi vào bản thân, ông nỗ lực là chính mình, cho đến khi ông có thể diễn đạt chính tư tưởng của mình bằng sự tươi mới của cách nói chứng thực cho sự tươi mới của tầm nhìn. Chắc hẳn, có một thuyết tự ngã “siêu việt” cao cả cho tất cả điều này, và bản thân Emerson đôi khi nói về người khác, thậm chí là bạn thân, như thể ý nghĩa chính của họ đối với ông là họ đã mang đến cho ông vì sự phát triển của ông. Tuy nhiên, ông sẽ nói rằng, hiện thực hóa chính mình theo cách này là tùy ở mỗi người.

Tiêu đề của các bài tiểu luận của Emerson thuộc một kiểu tư duy nhiều tính tư biện hơn, cho thấy các chủ đề triết học thu hút sự chú ý của ông: “Plato hay là vị triết gia”; "Đền bù"; “Các nhà theo thuyết siêu việt”; “Siêu linh hồn”; “Tự lực”. Rất khó để tìm thấy một hệ thống triết học rõ ràng và nhất quán thể hiện trong các tác phẩm này. Thật vậy, cố gắng tạo ra một nỗ lực loại này hoàn toàn bỏ lỡ điểm chính mà Emerson muốn làm; sự nhất quán, ông nói, là loài yêu tinh quấy phá của những cái đầu bé mọn. Tuy nhiên, ở một trong những tác phẩm đầu tay của mình, Nature (1836), ông đưa ra cho ta một tuyên bố khá chắc chắn về niềm tin triết học của mình, chỉ ra ông đã tiếp nhận quan điểm duy tâm theo cách nào và bằng cách nào ông đã vượt ra ngoài một thuyết duy tâm thuần túy nhận thức luận . Tinh thần, ông nói, luôn luôn bị thôi thúc đặt câu hỏi “liệu thiên nhiên có hiện hữu bên ngoài hay không”.

“Một sự hoài nghi cao cả không ngừng gợi ý cho bản thân, liệu điểm cuối này có phải là Nguyên nhân tối hậu của vũ trụ, và liệu tự nhiên có hiện hữu bên ngoài hay không. Là một miêu tả đầy đủ của sự xuất hiện mà ta gọi là thế giới mà Thượng Đế sẽ dạy cho tinh thần con người, và vì vậy làm cho nó trở thành người tiếp nhận một số lượng nào đó các cảm giác đồng dạng mà chúng ta gọi là mặt trời và mặt trăng, đàn ông và phụ nữ, nhà cửa và thương mại. Trong sự bất lực hoàn toàn của tôi để kiểm tra tính xác thực của ghi nhận của các giác quan của mình, biết liệu những ấn tượng mà chúng tạo ra đối với tôi có tương ứng với các đối tượng bên ngoài hay không, nó tạo ra sự khác biệt nào về việc liệu sao Orion có ở trên trời kia, hay một vị thần nào đó vẽ ra hình ảnh đó trên bầu trời của linh hồn? Các mối quan hệ của các bộ phận và kết thúc của toàn bộ còn lại vẫn như nhau, đâu là khác biệt liệu đất và biển tương tác với nhau và thế giới quay vòng và xen kẽ mà không có số hoặc kết thúc – vực sâu há ra nuốt vực sâu và thiên hà giữ thăng bằng cho thiên hà trong không gian tuyệt đối – hay liệu, không có mối quan hệ của thời gian và không gian, những sự xuất hiện giống nhau có được ghi khắc trong đức tin bất biến của con người hay không? Dù tự nhiên có hiện hữu thực sự mà không có hoặc chỉ có trong biến cố quan trọng của tinh thần, nó cũng hữu ích và đáng kính đối với tôi. Có thể là gì đi nữa, nó vẫn là lý tưởng với tôi bao lâu tôi không thể kiểm tra độ chính xác của các giác quan của tôi”.

Theo cách nói tương tự, ông nói một vài năm sau đó,

“Người theo thuyết duy tâm khởi đầu từ ý thức của mình và cho rằng thế giới chỉ là hiện tương xuất hiện ra. . . . tư duy của họ - đó là Vũ trụ. Kinh nghiệm của họ có chiều hướng nhìn thấy diễn trình các sự kiện mà ta gọi là thế giới, như là những gì tuôn trào không ngừng ra bên ngoài từ một trung tâm vô hình, khôn dò trong chính họ, trung tâm giống như của họ và của những người khác, và thôi thúc họ coi tất cả mọi vật là có một sự hiện hữu chủ quan hay tương đối, tương đối với Trung tâm bất khả tri nói trên của họ. . . . Tôi - tôi gọi tư tưởng này là cái Tôi - là khuôn đúc trong đó thế giới được rót vào như sáp ong tan chảy”.

Bằng cách nói ít tính kỹ thuật hơn và sau một sự xem xét ít khám phá hơn, Emerson dù sao đi nữa đã mang lại cho ta một thuyết duy tâm tiệm cận với thuyết duy tâm của Kant. Nó có tính phê phán, bởi vì, như ông nói, đàng nào thì thế giới là có tính “ý thể” (“ideal”/tức thuộc ý niệm của tâm trí. ND) với tôi chừng nào tôi không thể kiểm tra độ chính xác của các giác quan của mình. Một thuyết duy tâm như thế có công dụng của nó - nó giải phóng ta khỏi vật chất, nhưng nó không thỏa mãn các yêu cầu của tinh thần. “Nó để tôi trong mê cung lộng lẫy của những tri giác của tôi, đi lang thang không có kết thúc”. Vì thế, “trong tình trạng hiện tại của tri thức của chúng ta, thuyết duy tâm là một giả thuyết mở đầu hữu ích, dạy cho ta biết sự phân biệt vĩnh cửu giữa linh hồn và thế giới”.

Vượt ra ngoài thuyết duy tâm. Ta phải vượt ra ngoài thuyết duy tâm. Bằng cách nào? Tự nhiên gợi ra ba câu hỏi về vật chất, “Vật chất là gì?” “Vật chất từ đâu đến?” và “Vật chất sẽ đi đâu?” Ở nơi nào nó cũng gắn với Linh hồn. Thuyết duy tâm chỉ có thể trả lời cho ta câu hỏi đầu tiên trong số những câu hỏi này, chỉ dạy cho ta biết rằng vật chất không phải là thực thể mà là một hiện tượng. Làm thế nào người ta có thể chuyển từ thuyết duy tâm sang Tinh thần? Emerson chỉ đơn giản nêu vấn đề. . Đi theo “các bước vô hình của tư duy, ông tìm hiểu về tự nhiên, và “nhiều sự thật [ẩn giấu] đối với chúng ta trong những ngóc ngách của ý thức”. Bí mật của ông là trực giác; giống như mọi nhà thấu thị , ông ở trong sự hòa đồng với tồn tại. Trong sự cô độc, đạt được trọn vẹn nhất sự giao hòa với Tự nhiên, ông đến gần với Thượng Đế, và thậm chí còn được đồng nhất hóa với Ngài.

“Đứng trên nền đất trống - đầu tôi tắm trong không khí thanh thản và được nâng lên trong không gian vô tận - tất cả có nghĩa là thuyết tự ngã biến mất, tôi trở thành một nhãn cầu trong suốt; tôi không là gì cả; tôi thấy tất cả; dòng chảy của Tồn tại phổ quát lưu thông qua tôi; tôi là một phần hay một mảnh của Thượng Đế”.

Do đó, sự hữu dụng nhất của Tự nhiên là trở thành người trình bày Tinh thần Thượng Đế và dạy chúng ta rằng ta là một với Nó.

Emerson giải thích đầy đủ hơn Tinh thần (Spirit) theo ông nghĩa là gì trong tác phẩm “Siêu linh hồn” (Over-Soul), một bài tiểu luận nhờ nhiều vào Plotinus, vị triết gia mà các tác phẩm của ông luôn ở bên Emerson. Siêu linh hồn là “Nhà phê bình tối cao đối với những sai lầm của quá khứ và hiện tại... là thiên nhiên vĩ đại nơi chúng ta dựa vào khi trái đất nằm trong vòng tay mềm mại của bầu khí quyển; sự Hợp nhất đó, Siêu linh hồn đó, mà bên trong nó mỗi tồn tại cá biệt của con người được bao chứa và làm cho trở thành nhất thể với mọi tồn tại khác”.

Sự lưỡng phân hoặc sự rẽ đôi của triết học phê phán được khắc phục; nó được siêu vượt bởi trực giác của nhà thấu thị. “Chỉ có nhờ tầm nhìn của sự Minh triết đó thì mới có thể đọc được lá số tử vi của mọi thời đại”. “Linh hồn là kẻ nhận thức và tiết lộ sự thật. Chúng ta biết sự thật khi nào ta thấy nó, hãy để người hoài nghi và người báng bổ nói ra điều họ chọn”.

Đạo đức học. Đạo đức học phát triển từ sự minh triết của trực giác và huyền bí này có thể được nói ngắn gọn trong cách nói của chính Emerson, “Tự lực”. Trong những trang cuối cùng của Nature, Emerson nói với chúng ta rằng ông, người biết Tinh thần là gì, nhìn thế giới bằng con mắt mới mẻ. Bạn phải học cách tự tin vào bản thân, bạn phải tự lực, và từ đó, “xây dựng thế giới của riêng bạn”. Như Parrington nói,

“Được cởi bỏ cách viết duy tâm của nó. . . ý tưởng chủ đạo của triết học Emerson là sự đầy đủ thiêng liêng của cá nhân. . . . Gốc rễ của nền dân chủ là phán xét chính mình, tôn trọng chính mình”.

Cá nhân luận của Emerson đã đi xa đến mức ông thậm chí còn nói về sự biến mất của nhà nước (mặc dù theo một nghĩa khác với nghĩa của Marx đương thời với ông) khi con người thông thái này xuất hiện. “Con người thông thái là nhà nước”. Đây ít nhất là điều mà con người trong việc tìm kiếm sự minh triết đang hướng tới. Trong khi đó, ông thúc giục, “mỗi con người nên là một cách sống mới, không phải là sự lặp lại đơn thuần”. Ở đây, để cập nhật hóa Emerson , ta có thuyết hiện sinh của ông, đạo đức học về sự dấn thân của ông.

Học thuyết Emerson từ về sự tự lực và không tuân phục lề thói dường như thể hiện tới mức hoàn thiện tinh thần của chủ nghĩa cá nhân độc lập mạnh mẽ và rắn rỏi của nước Mỹ tiên phong trong thời đại của ông và tương phản với xu hướng đồng dạng, đồng phục, bị bên ngoài chi phối, ngày càng dễ thấy ngày nay. Tuy nhiên, học thuyết về sự tự lực của ông hoàn toàn không có nghĩa là mỗi người là một cá nhân tự trị trong tồn tại của mình; thay vào đó một người trở nên tự lực trong chừng mực trong đó mỗi người trở nên đồng nhất với Siêu-Linh hồn. Nói cách khác, tự lực là tín thác vào Thượng Đế. Trong bài thơ “Tự lực” của Emerson, sự phụ thuộc này của linh hồn vào Thượng Đế được nêu lên rõ ràng:

“Từ nay trở đi, lạy Chúa, mãi mãi con từ bỏ

Gông xiềng của tư kiến loài người.

Con xin nguyện Vô tư như một chú chim, và sống cùng Thượng Đế.

Con tìm thấy người ở tận đáy lòng con,

Nơi đây tiếng người con nghe không nghỉ.

* * *

Cây kim nhỏ luôn biết nơi đâu là hướng Bắc,

Con chim nhỏ nhớ tiếng ca của mình,

Và đấng thấu thị minh triết trong con không bao giờ phạm lỗi,

Con không bao giờ dạy nó điều nó dạy cho con;

Con chỉ nghe theo khi con hành động đúng”

Thuyết phiếm thần? Tất nhiên, trong mọi triết học đạo đức Kitô giáo, có một nghĩa rất thực trong đó sự tự lực của vật thụ tạo dựa trên sự phụ thuộc vào Thượng Đế; vật thụ tạo bị ràng buộc bởi bổn phận đối với Đấng sáng tạo ngôi vị chính là vì mối quan hệ của mình như một vật thụ tạo ràng buộc với Đấng sáng tạo ra mình. Câu hỏi là liệu có phải trong một triết học như triết học của Emerson thì sự hợp nhất về đạo đức của bản ngã và Thượng Đế không đồng thời là sự đồng nhất hóa tối hậu trong tồn tại.

Trong những năm về sau, Emerson nhấn mạnh sự phụ thuộc của linh hồn và sự đồng nhất với Tinh thần vĩnh cửu, với Siêu Linh hồn, hay Thượng Đế, và vì thế bị buộc tội là theo thuyết phiếm thần. Nếu, như Gilson đã chỉ ra, Plotinus không phải là người theo thuyết phiếm thần vì đối với ông, cái Một không phải là Hữu thể (Being) và do đó không giống với các thực thể lưu xuất từ Ngài, người ta sẽ nói gì về nhà siêu việt luận Tân-Plato của thế kỷ XIX này? Mặc dù quan niệm của Emerson về tồn tại nhờ nhiều vào siêu hình học sáng tạo luận về tồn tại, tuy nhiên, vì ông rốt cuộc đồng nhất hóa sự tồn tại của linh hồn với sự tồn tại của Siêu Linh hồn, thì phải cho phép nói rằng ông là người theo thuyết phiếm thần. Con trai ông, Edward Emerson, cho rằng đây là một diễn giải đúng về tư tưởng của Ralph Waldo. Điểm quan trọng dường như là nếu các nhà Tân-Plato theo Ki tô giáo và nhà huyền học ý thức về và bám vào một thần học về sự sáng tạo trong khi chấp nhận một siêu hình học theo thuyết lưu xuất thấy khó mà tránh khỏi việc đồng nhất vật thụ tạo và đấng sáng tạo, thì sẽ càng khó khăn hơn bao nhiêu cho những người mà bản thân thuyết Plato-mới của họ là phiên bản yếu hơn của Plotinus và học thuyết của họ về tồn tại chứa đựng những dấu tích của một thần học về sáng tạo không được thừa nhận?

Đánh giá. Những đánh giá về Emerson là rất khác nhau. Một số, như Noah Porter cùng thời với ông, cho rằng tầm nhìn của ông đúng ra thuộc về lĩnh vực tưởng tượng hơn là tư biện. Những người khác, như Parrington, so sánh ông với Plato, Shakespeare và Goethe. Tư tưởng của ông, như ta đã thấy, có nét tương đồng với tư tưởng của Plotinus và Kant. Emerson có phải là người ngang hàng với họ không?

Đối với tôi, Emerson được đánh giá là vĩ đại không phải vì quyền lực của tư tưởng của ông cho bằng việc ông là đại diện cho đất nước mình về tư tưởng, cũng giống như Lincoln về hành động, với tư cách là một nhà tư tưởng nhân văn chân thành sâu sắc và trung thành với tầm nhìn cá thể của mình về mọi vật. Ông không phải Kant cũng không phải Plotinus, vì nhận thức luận phê phán và học thuyết về dòng chảy thiêng liêng của ông không thể sánh với các học thuyết của họ; ông không phải Plato cũng không phải Shakespeare trong sự minh triết về đạo đức, không vĩ đại như những người cùng thời như Newman và Kierkegaard, Emerson vẫn là một nhà hiền triết và một nhà thấu thị bằng nỗ lực riêng của mình. Mặc dù học thuyết của ông có thể không hoàn chỉnh, song nhà thông thái của Concord dạy người ta phải thành thật với chính mình, tư duy bằng chính tư duy của mình, và đứng trên đôi chân của chính mình.

 

Nguyễn Thị Minh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính, trích dịch từ “History of Philosophy”, tập 2, The Bruce Publishing Company, 1959. (phần triết học Mỹ do Donald A. Gallagher, GS triết học Đại học Villanova viết.)

tin tức liên quan

Thống kê truy cập

114434793

Hôm nay

264

Hôm qua

2349

Tuần này

21443

Tháng này

211841

Tháng qua

1114316576

Tất cả

114434793